Từ Bỏ Công Danh Niệm Phật Thấy Phật Vãng Sanh

Từ Bỏ Công Danh Niệm Phật Thấy Phật Vãng SanhCư sĩ Lưu Trình Chi, tự Trọng Tư, hiệu Di Dân đời Tấn, người Bành Thành. Thuở nhỏ mồ côi, thờ mẹ hiếu thuận, thích Lão Trang, giữ chức Phủ Tham Quân. Ông cực lực từ bỏ chuyện tiến dẫn trên đường công khanh, đến Lô Sơn theo học với Tổ Huệ Viễn. Tổ hỏi:

– Quan chức, bổng lộc vòi vọi sao lại chẳng làm?

– Nhà Tấn không có được sự bền vững như đá tảng, dân tình mang nỗi nguy như trứng chồng, con biết làm thế nào?

Ông cùng những vị sĩ phu có lòng tin thanh tịnh đọc tiếp ➝

Mỗi Ngày Niệm 10 Câu Phật Hiệu Suốt 30 Năm Vãng Sanh Tịnh Độ

Mỗi Ngày Niệm 10 Câu Phật Hiệu Suốt 30 Năm Vãng Sanh Tịnh ĐộCư sĩ Mã Vu tự Trọng Ngọc đời Tống, người huyện Hợp Phì. Cha là Trung Túc Công Mã Lương, làm thái thú Hàng Châu, được ngài Từ Vân Tuân Thức dạy cho pháp môn Tịnh Ðộ, cả nhà bèn thờ Phật. Cư sĩ gặp được vị tăng tên Quảng Sơ truyền cho cuốn Thập Nghi Luận của Tổ Thiên Thai, mừng rỡ bảo:

– Tôi nay đã tìm được chỗ về rồi!

Ông liền áp dụng pháp Thập Niệm Hồi Hướng của ngài Tuân Thức, tu tập suốt hơn hai mươi năm. Về sau, giao du với ông Vương Cổ, ông càng thêm tinh tấn niệm Phật đọc tiếp ➝

Lâm Chung Quán Tưởng Tây Phương Liền Được Vãng Sanh

Lâm Chung Quán Tưởng Tây Phương Liền Được Vãng SanhĐệ tử ngài Huệ Viễn là Tăng Tế. Lúc sắp lâm chung, được ngài trao cho ngọn đuốc, nói rằng:

– Ông nên quán tưởng Tây phương.

Tăng Tế cầm đuốc chuyên tâm quán tưởng tướng hảo Phật A Di Đà, nhiếp tâm không loạn động. Lại thỉnh chúng tăng tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đến canh năm, Tăng Tế trao đuốc cho Nguyên Bậc rồi nằm nghỉ. Khi tỉnh dậy bảo rằng:

– Tôi nằm mộng thấy Phật A Di Đà đưa tay tiếp dẫn. đọc tiếp ➝

Nhờ Niệm Danh Bồ Tát Quán Âm Vãng Sanh Tây Phương

Nhờ Niệm Danh Bồ Tát Quán Âm Vãng Sanh Tây PhươngÐại sư Kim Trược thời Dân Quốc, người Ðài Châu. Tám tuổi xuất gia, ít lâu sau là được thọ giới. Ðược thầy dạy tụng chú Ðại Bi và niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, ngài liền mỗi ngày tụng chú bốn mươi tám biến; ngoài ra, chuyên trì thánh hiệu chưa hề gián đoạn.

Ngài xem danh lợi như bào ảnh; tập khí, thị hiếu đều tiêu trừ hết chẳng còn sót. Lúc bấy giờ, ngài trị bịnh cho người khác, vừa đặt tay lên bịnh đã được lành, chẳng nhận thù lao. Ngài ngụ trong một ngôi miếu nhỏ, gặp phải nạn cướp. Bọn cướp thấy ngoại trừ chiếc cà sa rách đọc tiếp ➝

Cả Đời Không Tin Phật Nhờ Thiện Căn Sâu Dầy Lâm Chung Nhiếp Tâm Niệm Phật Được Phật Đến Rước

Cả Đời Không Tin Phật Nhờ Thiện Căn Sâu Dầy Lâm Chung Nhiếp Tâm Niệm Phật Được Phật Đến RướcỞ tỉnh Giang Tô, huyện Cao Thuần, xóm Đông, làng Phụng Sơn, có Cư sĩ Châu Bảo Hoa giới thiệu tại đây có một giáo viên Trung học tên là Hàn Hữu Tài, vào năm ông 41 tuổi, bà mẹ và em của ông đều đã quy y Tam Bảo, ông vẫn không tin tưởng nhưng không phỉ báng. Sau đó mấy tháng, ông bị khối u trong bao tử đau đớn vô cùng, tánh mạng có thể chấm dứt bất cứ lúc nào. Qua đây, ông đột nhiên tỉnh ngộ.

Có người khuyên ông niệm Phật, ông đồng ý và nói: Không tin thì thôi, mà tin thì không nghi ngờ. Vốn biết không thể ngồi dậy được, nên ông nằm nghiêm trang đọc tiếp ➝

Một Tấm Gương Tu Tịnh Trọn Đời Không Khạc Nhổ Hoặc Quay Lưng Về Hướng Tây

Một Tấm Gương Tu Tịnh Trọn Đời Không Khạc Nhổ Hoặc Quay Lưng Về Hướng TâySư Chí Thông họ Thạch, đời Tấn, người Phượng Tường. Một hôm, thấy nghi thức Tịnh độ của đại sư Trí Giả, sư không cầm được sự vui mừng và tự hứa là không xoay mặt về hướng tây khạc nhổ, không ngồi quay lưng về hướng tây, chuyên tâm niệm Phật. Sau này, sư thấy chim bạch hạc, khổng tước sắp thành hàng từ hướng tây bay xuống, lại thấy hoa sen hé nở ở trước mặt, sư nói: “Chim bạch hạc, khổng tước là cảnh Tịnh độ, tướng sáng của hoa sen là chỗ ta sẽ sinh về. Cõi Tịnh độ đã hiện ra rồi!” Nói dứt lời, sư đứng dậy lễ Phật và thị tịch. Lúc làm lễ trà tì có mây lành năm màu xuất hiện bay vòng quanh rồi trùm đọc tiếp ➝