Niệm Phật Công Đức phần 1I. PHẬT PHÁP LÀ GIÁO DỤC, CHẲNG PHẢI LÀ TÔN GIÁO, CHẲNG PHẢI LÀ TRIẾT HỌC.
1. Phật pháp là giáo dục.

Những năm gần đây, Phật pháp ở Đài Loan có thể nói là rất phổ biến, nhất là pháp môn niệm Phật. Kể ra người niệm Phật tuy nhiều mà vì sao phải niệm Phật? Phải niệm như thế nào? Lợi ích niệm Phật có nhiều không? Thông thường mọi người đối với những vấn đề này hầu hết đều vẫn còn một số nghi ngờ. Lần diễn giảng này của chúng tôi, đặt nặng vào phương diện công đức của niệm Phật.

Trước hết, chúng ta phải có nhận thức chính xác đối với Phật pháp, sau đó mới có thể sinh khởi lòng ưa thích việc học Phật, thì lợi ích của công đức học Phật pháp rất dễ thành tựu. Dân Quốc năm thứ nhất (1911), tiên sinh Âu Dương Cánh Vô ở trường đại học Trung Sơn Đệ tứ của Nam Kinh[1], lần đầu tiên đã có một bài diễn thuyết rất quan trọng với đề tài là: “Phật pháp chẳng phải là tôn giáo, chẳng phải là triết học mà là nhu cầu cần thiết cho xã hội hiện nay”. Nội dung của đề tài bảo chúng ta rằng: Phật pháp quả là nhu cầu cần thiết cho xã hội này, chúng ta không thể nhìn Phật pháp như là tôn giáo; vì tôn giáo mang nghĩa hạn hẹp, không thể bao quát Phật pháp, còn Phật pháp bao quát tôn giáo. Phật pháp giống như là một trường đại học hoàn chỉnh. Tôn giáo và triết học đều là một khoa trong trường học. Một khoa không thể đại biểu cho cả trường.

Phật pháp rốt cuộc là thế nào? Tiên sinh Âu Dương nói: “Phật giáo chính là giáo dục”. Đương nhiên, cách nói này chắc chắn không sai nhưng chúng ta vẫn cảm thấy hoang mang, thần bí. Thế nên, chúng ta phải quan sát tỉ mỉ hơn, phát hiện Phật giáo rất giống sự giáo dục mà chúng ta đã nói. Nói đúng hơn, Phật giáo là sự giáo dục xác thực. Khi còn tại thế, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni[2] đã sáng lập cách giáo dục này, giống như cách giáo dục gia giáo được Khổng Tử[3] thành lập ở Trung Quốc. Chúng ta đã đọc lịch sử, biết rằng: Khổng Tử là một người sau khi bất đắc chí mới lui về ẩn cư, chuyên tâm vào công việc dạy học; Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thì bỏ chính trị mà theo việc dạy học, không giống như tình trạng của Khổng Tử nhưng sự thành tựu của các ngài trong giáo dục đều rất huy hoàng vĩ đại giống như nhau.

Sau khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, đệ tử Phật tôn xưng Đức Phật Thích-ca là “Bổn sư”, giống như những thư sinh ở Trung Quốc tôn xưng Khổng Tử là “Tiên sư”. Bổn sư là thầy giáo chính, là người đầu tiên sáng lập nền giáo dục này. Chúng ta tự xưng là đệ tử, đệ tử có nghĩa là học trò, đủ thấy chúng ta và Phật có mối quan hệ thầy trò. Chúng ta tôn kính Phật, xem Ngài là thầy của mình, hoàn toàn không phải là thần minh. Nếu nhìn Phật như nhìn thần minh thì đã biến thành tôn giáo. Người thời nay nói Phật giáo là tôn giáo, chúng ta cũng không có cách nào bác bỏ, bởi vì Phật giáo quả thật đã biến chất rồi. Vì vậy, mọi người trong xã hội đều xem Phật, Bồ-tát như thần minh. Phật giáo mà chúng ta cần học không phải là tôn giáo, mà là một bộ phận giáo dục. Như thế mới có thể được lợi ích chân thật, các Bồ-tát trong quá khứ cũng đều là học trò của Đức Phật. Các ngài đều là bậc trưởng bối của chúng ta, là những người học trò vào những năm đầu tiên học tập theo Đức Phật. Những quan hệ này mà có thể nhận thức rõ ràng thì không đến nỗi mê tín.

Phật giáo dạy chúng ta phải nên tin thật chắc chắn. Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Lòng tin là cội nguồn của đạo, là mẹ của công đức”. Nhà Phật thường đề cập đến: “Tu hành chứng quả”. Nói theo hiện nay chính là: Hoàn thành học nghiệp, thành tựu đức năng, tức là năng lực của Như Lai, trí huệ của Như Lai là trí huệ viên mãn. Trong đây, nhân tố quan trọng nhất chính là “Tín”. Phật giáo nói đến “Tin”có hai cách. Một là tin ở chính mình, hai là tin ở thầy. Phải có lòng tin chân chính đối với thầy, có thầy hướng dẫn chúng ta mới có thể nhận biết để học tập; nếu không có lòng tin đối với thầy thì dù cho thầy có giỏi đến mấy, bạn cũng không muốn học theo. Nói cách khác, nội dung chân thật của Phật pháp, bạn học không đến nơi, rốt cuộc bạn vẫn là một mảng rỗng không!
2. Mục tiêu giáo dục của Phật pháp: Vô thượng Chính đẳng Chính giác.

Chúng ta và Phật có mối quan hệ thầy trò. Đức Phật chân thành dạy dỗ chúng ta, thế thì đối với mục tiêu, nội dung dạy học của Phật pháp, chúng ta không thể không biết. Phật giáo tức là sự giáo dục của Đức Phật. Những điều chúng ta theo đuổi chỉ nhằm một mục tiêu A-nậu đa-la tam-miệu tam-bồ-đề[4]. Đây là mục tiêu chính của việc dạy học trong Phật giáo, câu này được dịch âm từ tiếng Phạn. Những đại đức phiên dịch kinh thời quá khứ tôn trọng câu ấy không dịch, ý nghĩa của điều đó là Vô thượng Chính đẳng Chính giác.

“Vô thượng Chính đẳng Chính giác”, nói theo từ hiện đại chính là “Trí huệ rốt ráo viên mãn”. Trí huệ này là “không có gì không biết, không có gì không làm được”, đối với hiện tại, quá khứ, vị lai đều có thể biết rõ ràng chính xác, rốt ráo viên mãn. Đây là mục tiêu chung của việc dạy học trong Phật giáo. Vì thế, điều mà chúng ta tìm cầu trong Phật pháp là trí huệ. Phật pháp là giáo dục trí huệ, dạy học trí huệ. Mới nghe qua, chúng ta không tránh khỏi nghi ngờ, điều đó có thể xảy ra không? Một con người mà đối với quá khứ, hiện tại, vị lai, nơi thế giới này hay ở nơi khác đều có thể biết rõ hết sao? Trong tôn giáo, chúng ta thường nghe ca ngợi thượng đế: “Không điều gì không biết, không điều gì không làm được”, con người cũng có thể làm được như thế sao?

Nếu các vị có chút quan tâm đến Phật giáo thì có thể hiểu rõ, thượng đế quả thật có những điều không thể làm, đó chỉ là lời khen ngợi mà thôi. Con người chỉ cần tu học theo Phật pháp, thật sự có thể đạt đến mục tiêu này. Việc dạy học của Phật pháp chỉ nhằm khôi phục lại đức năng, trí huệ vốn có mà thôi.

Kinh Kim Cang ghi: “Đức Phật độ tất cả chúng sinh nhưng thật sự không có chúng sinh để Như Lai độ”.

Đức Phật độ tất cả chúng sinh nhưng lại nói không độ một chúng sinh nào? Câu nói này có ý nghĩa thế nào? Bởi vì trí huệ là cái sẵn có của chúng sinh, không phải do Đức Phật ban cho. Lúc chúng sinh mê lầm, Đức Phật chỉ cho họ giác ngộ, trí huệ là cái sẵn có của mình.

Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Tất cả chúng sinh đều có đủ đức tướng, trí huệ của Như Lai”.

“Trí huệ” là chỉ cho trí huệ rốt ráo viên mãn, thấy hiểu cõi nhân sinh cả vũ trụ, đây là trí huệ vốn có của bạn, xưa nay đầy đủ.

“Đức năng” là chỉ cho tác dụng. Tác dụng của trí huệ rộng lớn vô biên, chân thật không thể nghĩ bàn, tận cùng hư không, biến khắp pháp giới đều là do đức năng của mình biến hiện.

Trí huệ và Đức năng của chúng ta có thật sự mất đi không? Quyết định là không. Đã không mất đi tại sao hiện giờ chúng ta trở nên khổ sở thế này? Bởi vì chúng ta mê. Nhưng mê như thế nào?.

Đức Phật nói: “Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc”. Đây là Đức Phật nói ra căn bệnh của chúng ta. Chỉ cần trừ bỏ vọng tưởng, chấp trước, sẽ khôi phục được trí huệ, đức năng. Vọng tưởng đã không thì trí huệ sẽ hiện tiền; chấp trước đã không thì trí huệ sẽ có mặt.

Về Trí huệ và Đức năng, trong quyển Vãng Sinh Luận, Bồ-tát Thiên Thân[5] đã nói: “Trí huệ chân thật, vô vi pháp thân”. Vọng tưởng đã không, trí huệ chân thật liền hiện tiền; chấp trước đã phá trừ thì pháp thân vô vi sẽ có mặt. Thành tựu cảnh giới này chính là quả vị Phật rốt ráo viên mãn, đó là thật sự tốt nghiệp trong giáo trình của Phật pháp.

Giáo trình của Phật pháp chia làm ba giai đoạn, giống như ba học vị của chế độ giáo dục đại học hiện đại, tốt nghiệp đại học là cử nhân, học nghiên cứu thêm những gì đã tốt nghiệp là thạc sĩ, tiến sĩ. Sự giáo dục của Đức Phật cũng có ba học vị. Học vị thấp nhất là A-la-hán[6]. Học vị cao hơn A-la-hán là Bồ-tát[7]. Học vị cao nhất là Phật[8].

Phật pháp nói: “Mọi người đều có Phật tính, mọi người đều sẽ thành Phật”. Điều này không có trong các tôn giáo khác, vì nhất định không thể ai cũng sẽ là thượng đế, còn Phật pháp đều là pháp bình đẳng, tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật. Chúng ta phải nhận thức rõ ý nghĩa A-la-hán, Bồ-tát, Phật. Danh từ ấy không phải thần minh mà là danh xưng học vị, đại biểu cho một giai đoạn đạt đến của tu đạo, chứng đắc Chính giác, gọi là A-la-hán; chứng đắc Chính đẳng Chính giác, gọi là Bồ-tát; chứng đắc Vô thượng Chính đẳng Chính giác, gọi là Phật.

Chúng ta không phải là mới mê một đời này, mà đời quá khứ đã mê, càng mê càng sâu, không cách nào giác ngộ. Thật ra, giác ngộ hoàn toàn không khó, khó ở điểm nào? Đó là không chịu buông bỏ vọng tưởng, chấp trước. Vọng tưởng, chấp trước chịu buông thì thành Phật rất dễ. Sự việc này không thể cầu nơi người khác, mà là cầu nơi chính mình. Nếu như không chịu buông bỏ vọng tưởng, chấp trước thì quả là khó, khó hay dễ do bàn tay ta điều khiển, không phải là do ngoại cảnh, hay người khác chi phối.

Mục tiêu tu học của Phật pháp là đi tìm nguồn gốc của mê, chúng ta phải thấy rõ điều này, sau đó chúng ta mới hiểu rõ giáo trình một đời của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, tức là Đại Tạng kinh được lưu truyền hiện nay. Nội dung của kinh chính là nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Đây là giác ngộ rốt ráo viên mãn, thấu rõ thật tướng.

Mỗi người không phải chỉ có đời này, chúng ta có đời quá khứ; đời quá khứ còn có đời quá khứ nữa; chúng ta có đời vị lai, đời vị lai còn có đời vị lai nữa; sinh mạng vĩnh hằng, bất sinh bất diệt. Không gian hoạt động, phạm vi đời sống của chúng ta là vô lượng vô biên, không hạn cuộc nơi địa cầu bé nhỏ này.

Kinh Phật ghi: “Hư không pháp giới có vô lượng vô biên cõi nước của chư Phật Như Lai”. Cõi nước của Đức Phật là chỉ cho khu vực phạm vi giáo hoá của một Đức Phật. Kinh Phật gọi là Tam thiên đại thiên thế giới, mà trong kinh nói đại khái đó là một dãy ngân hà. Những năm gần đây, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ thuộc ngành khoa học nghiên cứu đại lục ở Trung Quốc bảo chúng ta rằng: Một dãy ngân hà, chính là một đơn vị thế giới, một tiểu thế giới mà Phật pháp đã giảng. Tam thiên đại thiên thế giới là mười ức dãy ngân hà. Đây là khu vực giáo hóa của một Đức Phật.

Các vị nghĩ xem: Nếu như không có trí huệ và đức năng rốt ráo viên mãn thì làm sao Đức Phật có thể giáo hóa một khu vực rộng lớn như thế? Khu vực mà Đức Phật nói giống như vậy ở trong thái không là vô lượng vô biên. Thế giới vô lượng vô biên, chư Phật cũng vô lượng vô biên, chúng sinh càng vô lượng vô biên. Đây đều là phạm vi hoạt động, không gian đời sống của chúng ta. Chúng ta phải làm thế nào để khôi phục lại trí huệ bản năng và không gian cuộc sống đại tự tại của chúng ta? Đây chính là những điều mà Phật pháp muốn dạy chúng ta. Vì vậy, tâm lượng của chúng ta phải mở rộng. Giống như Đức Phật: “Tâm trùm thái hư, lượng đồng sa giới”.Tâm lượng này có lớn không? Bằng hư không pháp giới!

Chúng ta thử nhìn lại chính mình, thử nhìn tất cả chúng sinh xung quanh, tâm lượng nhỏ thì không có cách nào bao dung; chỉ có hai vợ chồng mà vẫn còn tranh cãi, ly hôn náo loạn. Thế mới biết Đức Phật nói chúng ta mê, mê đến mức độ nào! Vì vậy, trong kinh Đức Phật thường than thở chúng sinh là: “Những người đáng thương”. Nếu như chúng sinh không có trí huệ mà mê hoặc điên đảo thì không đáng thương, không đáng xót; còn chúng sinh có trí huệ, có đức năng giống như chư Phật Như Lai mà hiện giờ vẫn cứ mê muội đến mức như vậy, đó mới thật là đáng thương xót!

Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài dạy học 49 năm, không biên soạn sách giáo khoa. Mỗi ngày giảng pháp cho đại chúng, có những pháp Ngài chủ động nói cho học trò nghe, còn đa số là học trò (đệ tử ) nêu câu hỏi, Đức Phật giải đáp; cho nên, kinh điển tức là sách giáo khoa. Tại sao đương thời Đức Phật không biên sách giáo khoa để lại cho người sau? Đức Khổng Tử cũng không biên soạn sách giáo khoa để lại cho người đời sau, đây là đạo lý gì? Chúng ta hãy thâm nhập để hiểu, thể hội, có thể đạt được một chút tin tức. Bởi vì từng chữ, từng câu mà Đức Phật đã nói đều là những lời nói sống động, không phải là lời nói chết cứng, vì vậy ghi chép rất khó khăn. Sau khi viết thành văn tự rất dễ biến thành vật chết. Đối với sự tu học của người sau thường nảy sinh nhiều chướng ngại. Then chốt vẫn là nảy sinh vọng tưởng, chấp trước, cũng chính là đối với Phật pháp đã nảy sinh vọng tưởng, chấp trước.

Cách dạy dỗ của bậc thánh nhân xuất thế gian, chúng ta cần phải thể hội ý của các ngài, không thể chấp trước vào lời nói văn tự. Cách dạy dỗ của thánh nhân là từ ngữ sống, không phải là lời nói chết. Đây mới là “trí huệ chân thật”. Nói theo cách hiện đại, ngôn ngữ của các ngài là vượt khỏi không gian, thời gian. Vì vượt khỏi thời gian nên ba nghìn năm trước, Phật dạy như vậy là chính xác. Vì vượt khỏi không gian nên đương thời Đức Thế Tôn dạy người Ấn Độ, người Ấn Độ được lợi ích, đến Trung Quốc dạy người Trung Quốc thì họ vẫn được lợi ích như vậy. Bất luận truyền đến quốc gia nào, chủng tộc nào thực hành theo lời dạy của Ngài đều có thể được lợi ích chân thật.

Chúng ta phải hiểu rõ nguyên tắc lớn, tiền đề lớn này mới có thể bàn luận đọc kinh, không cần tìm sự giải thích, vừa đọc vừa suy nghĩ xem ý nghĩa của đoạn này là gì? Đoạn kia có ý nghĩa gì? Đó chính là đã khởi vọng tưởng chấp trước. Vì kinh điển không có ý. Nếu như tìm ý trong kinh điển, há chẳng phải là vọng tưởng đó sao? Có ý thì không thể vượt khỏi thời gian, không gian, không có ý mới có thể vượt khỏi thời gian, không gian. Kinh là lời nói sống động, ba nghìn năm trước thì có cách giảng của ba nghìn năm trước, ở vào thời Trung Hoa Dân quốc hiện đại, thì có cách giảng cho Trung Hoa Dân quốc; với người Trung Quốc thì có cách giảng cho người Trung Quốc; đối với ngoại quốc thì có cách giảng cho người ngoại quốc. Tất cả đều được lợi ích. Nó không phải chỉ là một cách giảng. Nó không có ý nhưng khi vận dụng lại có vô lượng nghĩa.

Kinh Bát-nhã dạy chúng ta: “Bát-nhã vô tri” vì “không điều gì mà chẳng biết”. Kinh điển không có ý, vì nó có vô lượng nghĩa. Sự thật, mọi người phải nghĩ kỹ một chút mới có thể thấy được.

Lối chú giải mà chúng ta xem trong kinh điển chính là cách giải của thời đại ấy. Sự chú giải của triều Hán là cách giải của bộ kinh này ở thời kỳ triều Hán. Những cách giảng giải ở mỗi thời đại nhất định là mang lại lợi ích cho người đương thời. Mục tiêu chung của kinh chính là “chân thật trí huệ, pháp thân vô vi”. Cùng một bộ kinh nhưng sự chú giải của người đời Đường, nhất định là có cách giải của thời kỳ nhà Đường, không giống như cách giải của triều Hán; giả như tương đồng thì cần gì phải làm chú giải nữa? Cách giảng giải của triều Tống, triều Minh, triều Thanh đều không giống nhau, kinh văn một câu cũng không động nhưng cách giảng giải không như nhau. Đây chính là vô lượng nghĩa. Vì vậy kinh văn không có ý nhưng lúc dùng thì vô lượng ý nghĩa.

Nếu như kinh văn có ý thì chỉ có một ý, một cách giảng thì ý nghĩa đó là ý nghĩa chết, không thể giảng ra ý nghĩa thứ hai. Đây là chỗ khó của việc phiên dịch kinh điển. Người thời nay đề xướng việc phiên dịch kinh điển Phật thành văn bạch thoại, vừa dịch ra thì các kinh đều đã có ý. Chính là biến Phật pháp sống này thành Phật pháp chết. Từ điểm này, kinh văn không thể có nghĩa thứ hai. Đây là điều mà chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng.

Những người phiên dịch qua các thời đại đều là bậc tu hành chứng quả, các vị không phải là nương theo mặt chữ để phiên dịch. Họ tự mình xác thật đã đạt đến cảnh giới đó, dù cho không thể đạt đến rốt ráo viên mãn thì cũng đạt đến cảnh giới Chính giác, Chính đẳng Chính giác[9]. Vì thế kinh văn được dịch ra không có sự thay đổi; tuy không thể phiên dịch được đến trăm phần trăm, đại khái cũng là tám chín mươi phần trăm. Quả thật, chúng ta có thể được thụ dụng.

Người thời nay phiên dịch kinh điển, họ có phải đã thâm nhập cảnh giới hay không? Nếu không thể vào cảnh giới này thì làm sao biết được chân tướng sự thật? Chân tướng sự thật mà Đức Phật đã chứng, các vị Bồ-tát, A-la-hán đã khế hội. Các ngài giảng ý nghĩa kinh cho chúng ta nghe, không phải là dùng tâm phàm phu, không phải là y văn giải nghĩa, cũng không phải là đem vọng tưởng, phân biệt chấp trước để giảng giải kinh, vậy các ngài dùng phương pháp nào để dịch kinh, giảng kinh? Đó là “chân thật trí huệ”.

Chân thật trí huệ từ đâu có? Nó đến từ sự khai ngộ của chính mình. Tại sao chúng ta không có cách nào khai ngộ? Tại sao các ngài có thể khai ngộ? Ngộ là vốn có, bản năng; Mê là vốn không. Trong “Đại Thừa Khởi Tín Luận”, Bồ-tát Mã Minh[10] đã nói: “Bản giác bản hữu, bất giác bản vô”.

Bất giác tức là mê, không có bản lai; còn trí huệ cứu cánh viên mãn là vốn có. Hiện tại vốn có đã không có. Nguyên nhân chính là do vọng tưởng chấp trước.
3. Đột phá chướng ngại của không gian và thời gian.

Sự tu hành của Phật pháp, then chốt ở ngay “thiền định”. Nhân giới được định, nhân định phát huệ; trí huệ đã mở thì bản năng khôi phục. Vì vậy, “định” là cầu nối trong sự tu hành của Phật pháp, ngay cả ba môn học “giới, định, huệ” trong Phật pháp cũng là cương lĩnh chung. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, bốn mươi chín năm giáo hoá tất cả chúng sinh chính là dạy giới, định, huệ.

“Giới” là dạy chúng ta tu phước, con người không thể không có phước báo, không có phước thì rất khổ, phước từ đâu mà có? Từ nơi đoạn ác tu thiện. Tất cả khổ nạn đều do ác nghiệp chiêu cảm ra. Hạnh phúc khoái lạc là quả báo có được từ thiện nghiệp. Nhân thiện nhất định có quả thiện, nhân ác nhất định có quả báo ác.

“Giới” là dạy chúng ta đoạn ác tu thiện. Vì vọng tưởng chấp trước trong ác nghiệp rất mãnh liệt, tâm thanh tịnh không dễ gì khôi phục. Thế nên đầu tiên Đức Phật dạy chúng ta “đoạn tất cả các ác, tu tất cả điều thiện”, nhập môn tại nơi đây và tu định tại nền tảng này.

“Định” là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, khởi lên tác dụng chính là trí huệ, nhất là tâm bình đẳng có mặt thì không điều gì không biết. Tại sao chúng ta không thể biết quá khứ vị lai? Vì sao không thể biết cõi nước này hay phương khác? Vì tâm của chúng ta không bình đẳng, có giới hạn. Giới hạn là chướng ngại. Giới hạn này không phải từ bên ngoài đến, mà là do chính mình tạo nên, làm dây buộc mình, do mình làm chướng ngại mình.

Phật pháp giảng giới học là nghĩa rộng, không phải là nghĩa hẹp. Ý nghĩa của sự trì giới, nói theo cách hiện đại, chính là tuân thủ pháp. Tuân theo phương pháp của thầy giáo dạy, không trái với nguyên tắc, nguyên lý của thầy, đây là “trì giới”. Chúng ta không thể xem trì giới như là trì năm giới, mười giới, tỳ-kheo giới, Bồ-tát giới. Nếu nhìn như thế thì phạm vi của nó rất nhỏ hẹp. Với cách nhìn này chẳng những không phá được chấp trước mà ngược lại càng thêm chấp trước; chấp vào năm giới, mười giới, Bồ-tát giới. Đức Phật dạy chúng ta phá chấp trước, chớ không phải dạy chúng ta tăng trưởng chấp trước.

Chúng ta không những vâng giữ lời răn dạy của Đức Phật mà cả pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán của thế gian cũng đều phải tuân thủ. Như thế, xã hội mới có thể hài hoà, mọi người mới có thể sống hạnh phúc an vui. Trì giới là tuân thủ pháp, chúng ta nhất định phải nuôi dưỡng thành tựu quan niệm tuân thủ pháp, phải nhận chân được điều đó. Chúng ta có thể tuân thủ pháp thì tâm tự nhiên an. Tâm an, lý sẽ được hội. Tâm an, tâm thanh tịnh, con người sẽ thông minh; tâm thanh tịnh thì phiền não ít, vọng niệm ít, thấy sự lý tự nhiên sẽ hiểu rõ ràng hơn trước kia, đây chính là “khai trí huệ”. Sự lớn nhỏ của trí huệ và sự sâu cạn của công phu thiền định đã trở thành tỉ lệ thức; nói cách khác, có một phần tâm thanh tịnh thì có một phần trí huệ. Có hai phần tâm thanh tịnh thì có hai phần trí huệ. Tâm Phật là thanh tịnh viên mãn. Cho nên, trí huệ của Phật cũng viên mãn rốt ráo, năng lực của Ngài cũng vượt qua tất cả.

Các nhà khoa học hiện đại đã phát hiện ra trong không gian và thời gian quả thật có không ít sự chướng ngại. Thuật ngữ của khoa học là “thứ nguyên” “ba thứ nguyên”, “bốn thứ nguyên”, vô lượng thứ nguyên. Chướng ngại từ đâu phát sinh ra? Nó nảy sinh từ vọng tưởng, chấp trước. Phật pháp cao minh, sau khi được tâm thanh tịnh, vọng tưởng chấp trước sẽ không còn. Thời gian, không gian mà tất cả “thứ nguyên” có, hoàn toàn đều đột phá, mới thấy được rõ ràng chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Hiện giờ chúng ta chỉ có thể tiếp xúc được không gian ở cấp độ 3, độ 4 còn cấp độ 5 thì không tiếp xúc được. Thử hỏi không gian ở cấp độ vô hạn làm sao có thể đạt đến?

Thật ra, trong mộng thì có cảnh giới trong mộng, trong định thì có cảnh giới trong định. Tùy theo sự sâu cạn của công phu thiền định mà cảnh giới không giống nhau.

Chúng ta thấy trong kinh Địa Tạng, mẹ của cô Quang Mục đã qua đời. Cô biết mẫu thân khi còn sống tạo ra rất nhiều ác nghiệp, nhất định rơi vào đường ác, rốt cuộc bà đọa vào đâu? Cô không biết. Cô bèn cầu thỉnh A-la-hán giúp đỡ. A-la-hán nhập định liền thấy mẹ cô đang chịu khổ trong địa ngục. Điều này nói rõ thứ nguyên không gian của đường địa ngục và nhân gian không giống nhau. Nhập định thì có thể đột phá, có thể tiến vào không gian của độ thứ năm và độ thứ sáu, có thể đột phá thì có thể thấy được.

Từ trong điểm này, chúng ta quan sát, đây là sự thật, không phải là ảo giác. Khoa học đã chứng minh sự tồn tại của không gian ở cấp độ thứ 11. Công phu thiền định của bậc A-la-hán hoàn toàn không sâu lắm. Trong kinh Lăng-nghiêm, Đức Phật nói: “Sức định của bậc A-la-hán là Cửu thứ đệ định[11]. Công phu thiền định của Bồ-tát sâu hơn, Bồ-tát có rất nhiều cấp bậc”.

Nếu nhìn theo kinh Hoa Nghiêm thì từ Sơ trụ đến Đẳng giác[12], tổng cộng có bốn mươi mốt thứ bậc. Nói cách khác, công phu thiền định có bốn mươi mốt thứ bậc không đồng nhau. Thứ bậc càng cao thì thứ nguyên không gian bị đột phá càng nhiều. Như thế mới có thể thấy rõ ràng chân tướng của vũ trụ nhân sinh.

Những điều Đức Phật nói không phải là giả, những thế giới phương khác được miêu tả trong kinh điển, như thế giới Hoa Tạng của Đức Phật Tỳ-lô-giá-na trong kinh Hoa Nghiêm. Hay thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-di-đà trong kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ Phật. Những thế giới này và thứ nguyên của chúng ta nhất định không giống nhau. Vì thế giới này của chúng ta, những người tu hành trong quá khứ, tu “định” đạt đến trình độ tương đương quả vị Phật đã thấy được thế giới Cực Lạc. Trong truyện ký Cổ Đức của tông Tịnh Độ ghi rằng: “Đại sư Huệ Viễn[13] thuở đương thời, một đời đã từng ba lần thấy thế giới Cực Lạc, đều là thấy được ở trong lúc định”.

Đại sư Trí Giả[14] khi đọc kinh Pháp Hoa, ngài nhập định, thấy Đức Phật Thích-ca giảng kinh Pháp Hoa ở hội Linh Sơn trong một nghìn năm trước. Điều đó đã vượt qua thời gian, không gian. Núi Thiên Thai ở tỉnh Triết Giang Trung Quốc, cảnh giới mà đại sư thấy được là xứ Ấn Độ của hơn một nghìn năm trước. Sau khi xuất định, đại sư Trí Giả bảo đại chúng rằng: “Đức Phật Thích-ca giảng kinh Pháp Hoa, đến nay pháp hội vẫn chưa tan”. Những thí dụ kiểu này rất nhiều, rất nhiều.

Đạo lý này nhiều nhà khoa học đều khẳng định, nhưng họ nghĩ không ra là dùng cách nào có thể khiến cho thời gian đảo ngược, quay về quá khứ. Phật pháp có biện pháp, phương pháp dạy chúng ta tu định. “Định” là tâm thanh tịnh, trong Giáo quán gọi là “Chỉ quán”; Mật tông gọi là “Tương ưng”; pháp môn niệm Phật gọi là “Nhất tâm bất loạn”; Thiền tông gọi là “Thiền định”. Danh từ tuy khác nhau nhưng sự thật tương đồng.

Chúng ta hiện đang đề xướng kinh Vô Lượng Thọ là chọn lấy bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư. Bản này là bản hay nhất trong tất cả bản kinh của kinh Vô Lượng Thọ. Trên đề kinh nêu rõ ràng, người tu học Tịnh Độ hy vọng đạt đến “Đại Thừa,Vô Lượng Thọ, Trang nghiêm”. Ba điểm này là sở cầu, đặc biệt là “Vô Lượng Thọ”. Quả thật là vô lượng chứ chẳng phải là vô lượng của hữu lượng. “Trang nghiêm” là Chân-thiện-mỹ mà thế gian đã nói. Người thế gian nói Chân-thiện-mỹ là hữu danh vô thực, nhưng thế giới Tây phương Cực Lạc thật sự có Chân-thiện-mỹ. Vậy chúng ta dùng cách nào để cầu?

Đức Phật đã đề xuất cho chúng ta ba việc, đó là Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác, tiêu chuẩn của tu hành. Người muốn được “Đại Thừa, Vô Lượng Thọ, Trang nghiêm” nhất định phải tu Thanh tịnh tâm, Bình đẳng tâm; chỉ cần tâm có thể làm được thanh tịnh, bình đẳng, tự nhiên được “Giác” đó. Trước mắt những việc mong cầu có thể được đáp đền như ý nguyện.

Vãng sinh thế giới Tây phương Cực Lạc, hiện tại có thể được hay không? Nhất định có thể được. Nếu như nói hiện tiền không thể làm được mà tương lai có thể được, thì sự việc này không những không thể bảo người khác tin được mà chúng ta cũng không tin nỗi. Hiện tại có thể làm được mà bạn không thể làm, chắc hẳn có lý do không thể làm.

Thuở xưa đại sư Chương Gia nói: “Hàng đệ tử Phật có cầu tất có ứng”. Có cầu mà không ứng là vì có chướng ngại. Nếu tìm ra chướng ngại, tiêu trừ sạch nó thì cảm ứng sẽ hiện tiền. Vì thế, ngay khi bạn cầu nguyện mà không có cảm ứng thì không thể trách Đức Phật và Bồ-tát không linh, điều đó không liên quan gì đến Phật và Bồ-tát cả.

Phật pháp hoàn toàn không có mê tín. “Mê” là điều Phật pháp cần phá trừ. Phật pháp là phá mê khai ngộ, có chỗ nào là mê tín?

Chẳng qua là chúng ta mê mà lại không tự biết còn cho rằng mình là Phật tử thuần thành, vì sao Phật và Bồ-tát không giúp đỡ chúng ta?

Phật và Bồ-tát như vị thần, đây hoàn toàn đã biến thành tôn giáo rồi. Vị thần có thể giúp đỡ chúng ta chăng? Thần không thể làm được điều đó.

Cổ nhân Trung Quốc từng nói: “Thông minh chính trực gọi là thần”.

Nếu chúng ta yêu cầu điều vô lý hoặc là cầu thần giúp đỡ thăng quan phát tài, mà ta lại còn tham ô phạm pháp thì chẳng lẽ thần cũng tham ô phạm pháp giống ta sao?

Chúng ta lễ thần, cúng dường ngài một ít ( hối lộ ngài), hy vọng ngài giúp ta phát tài một trăm vạn; đây quả là làm nhục thần minh, hết sức bất kính đối với thần minh. Từ đây mà quan sát, có thể biết người thế gian mê muội, điên đảo, nhầm lẫn, chúng ta hãy quay đầu lại nhìn xem, những lời Đức Phật đã nói trong kinh điển, bạn sẽ gật đầu chấp nhận từng chữ từng câu đều là lời chân thật.

Chúng ta đã biết pháp môn này, muốn nhận thức, muốn tu học, nhất định phải xem kỹ ý nghĩa chân thật của nó. Tôi đã từng làm một chuyên đề giảng giải tại Miami của nước Mỹ. Tựa đề là “Nhận thức Phật giáo”. Có vị đồng tu phát tâm ghi âm, chỉnh sửa xong văn chữ, in thành một quyển sách nhỏ, các vị hãy nên đọc kỹ.

Bản chất của Phật pháp, chúng ta đã nhận thức rõ thì phương hướng và mục tiêu của việc tu học mới không sai lầm. Sau đó mới có thể nói đến niệm Phật, thành Phật.
4. Pháp môn niệm Phật rất dễ thành tựu.

“Niệm Phật” là một trong những phương pháp tu hành của Phật pháp. “Thành Phật” là thành tựu trí huệ rốt ráo viên mãn.

Hiện giờ, sự nghiệp gia đình, cuộc sống mà chúng ta đang đối mặt, cho đến vấn đề sinh tử, chỉ có nương theo trí huệ chân thật, mới có thể giải quyết trọn vẹn. Không có trí huệ chân thật, hàng ngày dấy lên vọng tưởng, thế thì khổ càng chất chồng thêm khổ.

Chúng ta phải từ trong trí huệ chân thật, tìm lấy bản lai diện mục của chính mình, Thiền tông nói: “Bản lai diện mục trước khi cha mẹ sinh ra”, mới là cái ta chân chính. Phật pháp nói “vô ngã”. “Ngã” là quan niệm sai lầm của phàm phu. Cái này quả thật không có. Bốn đức: “Thường-Lạc-Ngã-Tịnh”, cái “Ngã” trong đó mới là Chân Ngã, tức là: Cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ sinh ra mà thiền gia đã nói.

“Vô vi pháp thân” mà Bồ-tát Thiên Thân đã nói trong Vãng Sinh Luận cũng là Chân Ngã. Chân Ngã đã tìm được sẽ được đại tự tại. Dáng vẻ của tự tại là cái gì?

Ba mươi hai ứng thân đã nói trong phẩm Phổ Môn, chính là dáng vẻ của đại tự tại. Nếu có thể tìm được bản lai diện mục của mình thì sẽ có năng lực phân thân, có năng lực biến hoá, “Nên dùng thân nào để độ, sẽ hiện thân ấy”. Như thế thì tự tại biết bao! Hiện tại chúng ta rất đáng thương, không có pháp phân thân. Lần này tôi đến đây, các bạn đồng tu mong tôi ở lại một thời gian lâu hơn. Nếu như tôi có thể phân thân, Đài Nam phân một thân, Đài Bắc phân một thân, nước Mỹ một thân, suốt năm ở những địa phương ấy. Tự tại biết bao! Do đây có thể biết, tôi không chứng được “Vô vi pháp thân”. Chúng ta tin rằng đây là sự thật chính xác. Sự thật này tuy không thấy được, nhưng những lý luận này Đức Phật đã nói trong kinh điển. Chúng ta nghĩ kỹ có thể biết đó là điều chính xác, là điều có thể.

Nói cách khác, tâm thanh tịnh bình đẳng của chúng ta vẫn chưa đạt đến tiêu chuẩn này nên càng phải nỗ lực tu học hơn, chuyên cần hơn.

Phật pháp giống như trường đại học, trong đó có nhiều khoa, chúng ta nên chọn như thế nào? Nguyên tắc chọn lựa, không ở nơi bản thân của các khoa này, cũng chính là nói, không ở nơi pháp môn. Tại sao? Vì pháp môn bình đẳng, trong kinh thường nói: “Pháp môn bình đẳng, không hai không khác”. Bất kỳ pháp môn nào, tiêu chuẩn tu học đều là “Vô thượng Chính đẳng Chính giác”. Mỗi pháp môn đều có thể thông đạt, then chốt của sự lựa chọn ở nơi mình. Ví dụ như: Giảng đường này có nhiều cửa; mỗi cửa đều có thể bước vào, vì mỗi cửa đều như nhau, chọn cửa nào để bước vào đó là điều kiện của bản thân bạn. Ví như bạn đang đứng nơi cửa này, thuận tiện liền bước vào, vậy là quá dễ dàng. Nhưng nếu bạn chần chừ không bước vào cửa này, cứ đi vòng quanh muốn vào cửa kia, đến cửa lại hoài nghi, lại đi sang cửa khác, vòng tới vòng lui, quanh quẩn đã mấy mươi phút vẫn không bước vào cửa. Đây chẳng phải là tự chuốc lấy phiền não sao? Có rất nhiều người học Phật, phạm vào chứng bệnh này, đều quẩn quanh ngoài cửa, không biết “Nhất môn thâm nhập”.

Đương nhiên, cổ nhân nói: Pháp môn có khó có dễ, khó dễ cũng không ở tại pháp môn, mà ở ngay bản thân chúng ta. Chúng ta vọng tưởng nhiều, phiền não nặng, có một số pháp môn tu học sinh ra cảm giác dễ dàng. Đây là do căn tính của chúng sinh không đồng. Nếu như phiền não tập khí quá nặng, thì nên chọn lựa pháp môn nào để chúng ta học dễ thành tựu? Đó là “Pháp môn niệm Phật”. Pháp môn niệm Phật dễ dàng thành tựu. Đây là pháp môn mà tất cả chư Phật, Bồ-tát tiến cử cho chúng ta. Người có nghiệp chướng rất nặng cũng có thể thành tựu, tu học pháp môn khác thì không dễ thành tựu.

Trong nhiều pháp môn, tại sao chúng ta lại chọn pháp môn niệm Phật của tông Tịnh Độ để tu học? Điều này có hai nguyên nhân:

1. Vì căn tính của chúng ta và hoàn cảnh hiện tại, khiến cho chúng ta không có năng lực bước vào học thuật của tông phái khác. Kinh luận của những tông phái khác rất nhiều, phương pháp tu hành cũng không đơn giản. Trong thời đại này, chúng ta rất khó thích ứng, còn tông Tịnh Độ thì đơn giản hơn. Kinh điển của tông này chỉ có ba kinh một luận. Sau đó những bậc đại cổ đức lại bổ sung hai phẩm kinh, trở thành năm kinh Tịnh Độ, phân lượng đều rất ít, vô cùng thích hợp đối với người hiện đại.

Cư sĩ Ngụy Nguyên triều nhà Thanh đem phẩm “Phổ Hiền Bồ-tát hạnh nguyện” trong kinh Hoa Nghiêm đưa vào phía sau phẩm kinh thứ ba gọi là Tứ kinh Tịnh Độ. Sau đó Pháp sư Ấn Quang[15] lại đem chương “Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật viên thông” trong kinh Lăng-nghiêm, đặt phụ lục phía sau phẩm kinh thứ tư thành năm kinh Tịnh Độ. Phân lượng của năm bộ kinh không nhiều. Đây là những kinh luận y cứ của tông Tịnh Độ, để cho chúng ta giảng giải quả thật rất tiện lợi; hơn nữa tông Tịnh Độ được sự khen ngợi của tất cả chư Phật. Chúng ta đi sâu vào kinh tạng, mới hiểu rõ pháp môn này là pháp môn vô thượng của sự tu hành chứng quả. Quả thật không thể nghĩ bàn! Theo hoàn cảnh hiện tại mà nói, đó là pháp môn tu học thích hợp nhất.

2. Theo lời dạy của Đức Phật, pháp của Đức Phật vận chuyển mười hai nghìn năm. Chính pháp một nghìn năm, Tượng pháp một nghìn năm, Mạt pháp mười nghìn năm. Theo sự ghi chép của lịch sử Trung quốc, năm nay (1994) là 3.020 năm sau khi Đức Phật diệt độ.

Nói cách khác, chúng ta đang ở trong giai đoạn mười nghìn năm thời kỳ Mạt pháp. Trong kinh Đại Tập, Đức Thế Tôn nói:

– Thời kỳ Chính pháp “Giới luật thành tựu”.

– Thời kỳ Tượng pháp “Thiền định thành tựu”.

– Thời kỳ Mạt pháp “Tịnh Độ thành tựu”.

Chúng ta sinh vào thời kỳ Mạt pháp, theo lời dạy của Đức Phật tu học Tịnh Độ, thì không nên trái lời Đức Phật dạy. Vì hai nhân tố này mà chúng ta quyết định chọn pháp môn niệm Phật.

Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục