Một Vị Sư Vãng Sanh Thượng Phẩm Lúc Trà Tỳ Trên Đảnh Và Hai Tay Hiện Ra Hóa PhậtNgọc Phong Pháp Sư tự là Luyến Tây, do đó người đời cũng gọi là Luyến Tây Ðại Sư, người ở huyện Quảng Tín, tỉnh Giang Tây. Xuất gia tại chùa Phổ Ninh từ lúc chỉ mới hơn mười tuổi. Thầy thế độ dạy đọc tụng các kinh Ðại Thừa, do linh căn đã gieo sẵn, thảy đều thông suốt. Sau khi thọ giới Cụ Túc nơi chùa Quốc Thanh ở Thiên Thai, Ngài lập chí tu tập theo tông chỉ kinh Phạm Võng. Kế đến lại nỗ lực dụng công Tham Thiền, ngày nọ lúc canh khuya nghe tiếng chuông ngân vang, chợt hoát nhiên tỏ ngộ.

Một hôm nhân xem đến quyển Viên Trung Sao của ngài U Khê Truyền Ðăng, thấy khế hợp với tâm mình, Ngọc Phong Pháp Sư vui mừng lập thệ nguyện gìn giữ giới luật trang nghiêm và chuyên tâm niệm Phật để cầu sanh Tịnh Ðộ. Ngài tự tu và khuyến hoá cho người rất là thành khẩn, nên hàng Tăng tục hưởng ứng theo ngày càng đông. Khi giảng đến sự khổ trong vòng sinh tử luân hồi, lời nói của Ngài rất thống thiết, khiến cho thính giả phải rơi lệ. Ngọc Phong Pháp Sư cũng giảng thuyết và viết nhiều sách hoằng dương Pháp Môn Tịnh Ðộ, đại khái khen ngợi đó là đường lối dễ tu dễ thành, công năng siêu hơn các hạnh, nếu tuân hành theo tất sẽ được sự lợi ích rộng to nhanh chóng.

Sự giáo hoá về Tịnh Ðộ của Ngài rất thiết thực. Ði ngay vào đường lối hành trì, giải tỏa những khúc mắc thường có nơi Tịnh Ðộ hành nhân. Xin được ghi lại đôi thi kệ của Ngài:

Chuyên niệm A Di Ðà
Chẳng cần trừ vọng tưởng
Chỉ cần tiếng chẳng dứt
Quyết định sanh An Dưỡng.

Chuyên niệm A Di Ðà
Chẳng cần tầm phương tiện
Chỉ cần tâm thường nhớ
Quyết định thành một phiến (nhất tâm).

Chuyên niệm A Di Ðà
Chẳng cần trừ phiền não
Chỉ cần tiếng Phật hiệu
Quyết định phiền não giảm.

Ngài lại thuê thợ khắc bản đá kinh A Di Ðà để ấn tống, ban hành các kinh luận Ðại Thừa, làm những thắng hạnh khác để trợ tu khuyên người, lưu thông Phật Pháp, đền đáp bốn ân.

Năm Quang Tự thứ mười lăm (1889), trụ trì chùa Tây Phương ở Minh Châu là Hòa Thượng Tịnh Quả, gởi thư mời về tu tại bản tự, vì thấy tên chùa phù hợp với bản nguyện của mình nên Ngài nhận lời cầu thỉnh.

Từ khi phát tâm cho đến lúc lâm chung, mỗi ngày Ngọc Phong Pháp Sư niệm Phật sáu muôn câu, hai thời hồi hướng, dù tiết trời lạnh nóng cũng không trễ bỏ, lấy đó làm định khóa.

Năm Quang Tự thứ mười tám (1892), vào ngày mùng sáu tháng Bảy, sau thời ngọ trai, Ngài cảm thấy hơi thở ngăn uất khó khăn. Ngày kế Hòa Thượng Tịnh Quả cho mời danh y đến chẩn trị. Sau khi xét nghiệm, y sĩ bảo:

“Mạch đã hoàn toàn kiệt mất, không còn dùng thuốc chi được nữa”. Nhưng Ngọc Phong Pháp Sư vẫn ngồi kiết già hướng về Tây mà niệm Phật, không nói năng chi, tinh thần xem có vẻ khang kiện hơn lúc bình thường. Y sư thấy thế than thở, ngợi khen, cho là điều ít có. Hòa Thượng Tịnh Quả hỏi: “Xin thỉnh chư Tăng đến xưng hồng danh để trợ niệm có được chăng?” Ngài gật đầu. Khi đại chúng đứng hai bên niệm thánh hiệu Di Ðà, ước chừng tàn một cây hương thì Ngọc Phong Pháp Sư chắp tay gắng sức niệm Phật độ vài trăm câu, rồi an vui mà thoát hóa.

Ngày mùng Chín, lúc nhập khám, mọi người kiểm thấy đảnh đầu còn nóng, sắc mặt hiện tướng sáng suốt tươi nhuần.

Rằm tháng Hai năm sau, khi thiết lễ trà-tỳ, hàng Tăng tục về dự hơn vài trăm người. Khi ngọn lửa vừa bốc cháy đều, cửa bảo khám sụp xuống trước, đại chúng thấy thi thể Ngọc Phong Pháp Sư vẫn còn ngồi kiết già, nghiễm nhiên tươi tỉnh như còn sống. Lúc lửa cháy to, mọi người lại thấy trên đảnh Ngài hiện ra mười vị Phật, nơi mỗi bàn tay hiện ra một đức Như Lai tướng tốt trang nghiêm. Ðó là lúc sanh tiền, Ngọc Phong Pháp Sư từng đốt mười liều hương nơi đầu cúng dường mười phương Phật. Và mỗi bàn tay lại đốt một ngón, một cúng dường đức Thích Ca, một cúng dường đức A Di Ðà. Do Ngài có lòng chân thành, nên lúc thiêu hóa mới hiện ra điềm lành hy hữu như thế. Nhìn công hạnh tự độ và độ tha, Ngọc Phong Pháp Sư hẳn được sanh về Thượng Phẩm.

Bị chú: Phần lược truyện Ngọc Phong Pháp Sư được biên soạn chủ yếu dựa theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, bản dịch của H.T Thích Thiền Tâm. Chúng tôi chỉ bổ sung thêm một vài tiểu tiết.

Trích Niệm Phật Tứ Ðại Yếu Quyết
Dịch theo bản in năm 2000 của Trầm Vượng Táo Tiên Sinh
Luyến Tây Ðại Sư Ngọc Phong Cổ Côn soạn