Lợi Ích Sự Trợ Niệm Vãng Sanh

Lợi Ích Sự Trợ Niệm Vãng SanhNi cô Thích nữ Đàm Thành là đệ tử xuất gia của hòa thượng Thượng TRUNG,hạ QUÁN chùa Hoa Nghiêm (Pháp Quốc) bị bệnh suy yếu thận,nên phải lọc máu (hémodialyse) mỗi tuần 3 lần tại bệnh viện Paris gần 18 năm trời,trụ thế được 78 tuổi.chúng tôi muốn kể lại cho quý vị biết việc quan trọng,và lợi ích của sự trợ niệm cho người lâm chung! Hai ngày,trước khi ni cô viên tịch,chúng tôi có đến thăm,nghe bác sĩ nói:sức khỏe ni cô rất yếu,từ mấy ngày rồi không ăn gì được nữa, và sẽ mất đi khoảng vài ngày tới!

Ngày thứ hai,17-05-2010,chúng tôi có vào bệnh viện thăm,sức khỏe ni cô quá yếu,nên chỉ lấy mắt mà nhìn mọi người,chứ không còn hơi sức để nói chuyện như trước ! Lúc 14 giờ 30 phút, chúng tôi gồm 7 người bắt đầu Niệm Phật đến 15 giờ 30 phút,gia đình xin cáo từ ra về trước!Bây giờ,còn lại Tôi(Minh Đăng)và ni cô Huệ Phước, tiếp tục Niệm Phật đến 16 giờ 10 phút.Tôi có linh tính rằng:Ni cô Đàm Thành sắp sửa lâm chung,nên liền đứng dậy đến bên giường và để tay lên đầu ni cô mà Niệm Phật… Quả thật đúng y như vậy,khoảng 5 phút sau,ni cô dùng anh mắt nhìn Tôi,để nói lên sự cảm ơn,thở ba hơi cuối cùng rồi nhắm mắt nhẹ nhàng ra đi trong lúc nghe niệm Phật.

Thấy vậy,chúng tôi liền báo với Bác sĩ đến khám nghiệm ngay,Bác sĩ cho biết ni cô đã ra đi an lành!Chúng tôi xin phép đừng cho đụng chạm đến thi thể,và vẫn tiếp tục Niệm Phật thêm 8 giờ đồng hồ nữa!Lúc mới mất,miệng đang mở,sắc diện gương mặt nhìn thấy hơi xám,do nhờ công đức trợ niệm Phật đến 4 giờ sau ,thì sắc diện tốt hơn và miệng cũng từ từ ngậm lại,5 người ra về, lúc đó họ mới trở lại,bây giờ là 20 giờ 15′. Vì sự trợ niệm rất quan trọng,muốn được lợi ích trọn vẹn cho người mất,chúng tôi khuyên mọi người hãy bình tĩnh,không nên than khóc vô ích,làm cho giác linh không được siêu thoát,chúng tôi chia ra hai nhóm thay phiên nhau Niệm Phật,nghĩa là nhóm này (A) niệm luôn một hơi dài được khoảng 7 lần Nam Mô A Di Đà Phật rồi ngưng,nhóm kia (B) cũng niệm như vậy,mãi cho đến 24 giờ 20 phút mới ngừng niệm.

Như vậy,niệm Phật được gần 10 giờ đồng hồ,bây giờ,chúng tôi thăm dò hơi ấm xem ni cô được sanh về đâu?Mọi người đều hoan hỷ khi để tay trên đỉnh đầu vẫn còn hơi ấm,chứ không lạnh như nơi khác,và nhất là khi cầm bàn tay lên,các ngón tay vẫn thấy mềm mại ! Quý vị thử nghỉ,đoán xem ni cô được sanh về đâu? Có vãng sanh Cực Lạc ?

Mặc dù lúc trợ niệm,không thấy Phật,Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn vì lý do phẩm sen thấp,hoặc chỉ người sắp mất mới thấy,nhưng được niệm Phật trước khi mất là rất Tốt.Phật,Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn đặc biệt cho người Thượng phẩm,thì nhiều người sẽ thấy, sáng hôm sau,chúng tôi trở lại Niệm Phật đến 16 giờ chiều,thi thể được di chuyển đến nhà thiêu (crématorium), mỗi ngày sáng,chiều đều tụng kinh A DI ĐÀ,và 108 lần thần chú Tỳ Lô Giá Na,oai thần lực của niệm Phật,tụng Kinh,trì Chú thật Không Thể Nghĩ Bàn,sắc diện ni cô vẫn tốt,không có mùi hôi mặc dù đã viên tịch 6 ngày rồi!

Thứ bẩy,22-05-2010 sau khi thiêu xong,tìm trong tro xương thấy có một vật dài bằng lóng tay út (2 cm) màu xanh như ngọc cẩm thạch rất bóng và đẹp (dĩ nhiên là khi thiêu không có để vào).(khoảng 1 tháng sau,xá lợi lại biến thành màu xám)

Trong tạp chí này có bài Những Vấn Đề Cần Biết Khi Lâm Chung (Thích Tâm An) quý vị nên đọc kỹ và làm theo thì mọi việc được tốt lành như:thỉnh Tăng,Ni,Phật tử trợ niệm,không nên than khóc,phải thay phiên niệm Phật liên tục ít nhất là 8 giờ đồng hồ, sau đó mới thay đồ,lau rửa thi thể,thỉnh mền quang minh(tấm đà ra ni,có các thần Chú) tụng kinh cầu siêu suốt 49 ngày ở Chùa,cúng cơm vong linh bằng các món chay tịnh.

Nhớ thường trì tụng và thực hành theo lời Phật dạy trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện,đây là câu chuyện trợ niệm ở tại PARIS 17/05/10,đăng lên để chia sẻ cùng Phật tử khắp nơi.

Tỳ kheo Thích Minh Đăng

Niệm Phật Thoát Nạn Chết Đắm

Niệm Phật Thoát Nạn Chết ĐắmCư sĩ Ngô Doãn thăng, tự Thường Đạo người huyện Hấp ở Huy Châu. Lúc tuổi trẻ ông thường đi lại mua bán nơi vùng Tô, Hàng. Trong cuộc du ngoạn chùa núi Hổ Khâu, một vị Tăng tình cờ gặp mặt ông nhìn kỹ đoạn bảo: “Ngươi cũng có căn lành, song tiếc vì lúc hai mươi chín tuổi bị nạn chết đắm, biết làm sao?”.

Doãn Thăng nghe nói sợ hãi, cầu thỉnh phương pháp giải cứu. Vị Tăng trầm ngâm giây lát rồi dạy: “Từ nay trở đi, ngươi phải giới sát phóng sanh. Mỗi ngày đều nên chí thành trì chú Đại Bi và niệm Phật, may ra có thể thoát khỏi!”. Doãn Thăng tin nhận thật hành, lại thường đem điều này khuyên người.

Đến năm hai mươi chín tuổi, cư sĩ từ Hàng Châu nương thuyền trở lại quê nhà. Bạn đồng hành được tất cả mười bảy người. Khi thuyền trương buồm ra đi độ vài mươi dặm, ngọn thủy triều chợt ầm ầm xô đến, sóng to nổi dậy thế rất nguy cấp. Doãn Thăng chợt nhớ lời vị Tăng nói khi trước, vội chấp tay niệm Phật.

Giây phút thuyền lật úp, ông và tất cả hành khách đều bị cuốn lôi theo sóng nước. Trong cơn hoảng hốt mơ màng, bỗng nghe tiếng nói: “Ngô Doãn Thăng khuyên người niệm Phật có công, được thoát khỏi nạn này!”. Cư sĩ vội mở mắt nhìn xung quanh thì thân đã nằm trên bờ, bên mình có những người chài lưới đang vực tỉnh. Kiểm điểm lại, mũ giày hành lý đều bị nước tuôn mất hết, duy có xâu chuỗi mười tám hạt bình nhật thường trì niệm hãy còn nắm chắc nơi tay. Còn mười sáu người kia đều bị trôi chìm không thấy tung tích.

Từ đó ông càng tin công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn! Cư sĩ không trở về quê, ở lại mở ngôi quán xem tướng, mượn nhân duyên này để nói lý nhân quả, khuyên người tu niệm.

Sau cơn hoạn nạn, Doãn Thăng hành trì càng tinh tấn. Ông đều liều hương nơi cánh tay thành bốn chữ “Cầu sanh Tâyphương” để nêu rõ hạnh nguyện của mình. Người ở Hàng Châu theo di phong của Tổ Liên Trì, phần nhiều đều tín hướng pháp môn niệm Phật. Song những kẻ thật hành, lại là người già cả, không có hạng thiếu niên.

Mỗi tháng họ tập họp lại chùa niệm Phật, gọi là Lão Nhi Hội. Sự tập hợp cũng không dám đi đông nhiều, vì sợ bị hiềm nghi là dị giáo mưu đồ chánh trị. Doãn thăng khẳng khái tuyên bố với mọi người: “Môn niệm Phật không phân biết nam nữ già trẻ sang hèn. Đạo Phật là chánh giáo được triều đình mến ưa công nhận, tại sao lại phải e sợ?”. Lúc ấy Diên Kiểm Điền, một quan chức quyền quý, đang chủ duyệt kiểm tra về thuế muối ở Hàng Châu, cùng cư sĩ có tình cựu hảo. Nhân cơ hội, ông mở cuộc lạc quyên, trước tiên đến Diên công được ngài góp vào hai trăm lượng vàng để làm thủ xướng.

Với số tiền quyên được, cư sĩ đặt thành quỹ phương tiện thâu lợi tức nhẹ mở mang hội niệm Phật tại chùa Bảo Thành ở núi Tử Dương và làm các việc từ thiện. Mỗi khi gặp ngày hội kỳ, ông vì quần chúng giảng giải Phật pháp, nói lý nhân quả. Kẻ chưa phát tâm khuyên tinh tấn tu niệm. Cư sĩ lại mở thêm chi hội nơi chùa Tiên Lâm ở trong thành cùng các chỗ khác để khuyến hóa. Kẻ tin tưởng niệm Phật ngày càng đông có đến số ngàn. Mỗi khi tập hợp, tất cả đều nghiêm trang kính cẩn, không buông lung rộn ràng huyên náo.

Tượng Tam Thánh cao một trượng sáu nơi điện Tây phương tại chùa Tiên Lâm, cũng do người trong hội kiến tạo. Một buổi sáng đang lúc tập hợp niệm Phật, đại chúng thấy từ trong mũi tượng Đại Thế Chí Bồ tát phóng ra một đạo bạch quang bay vòng quanh nơi điện đình hơn vài khắc mới tan mất.

Từ đó ở thành Hàng Châu phong thái niệm Phật thạnh hành. Các vùng xung quanh cũng được ảnh hưởng cảm hóa, trẻ già trai gái tay cầm tràng, miệng niệm Phật, là chuyện thông thường không còn xa lạ. Danh hiệu Doãn Thăng đàn bà con trẻ đều biết. Mỗi kỳ hội, các nơi thay phiên nhau thỉnh cư sĩ đến din giảng. – Tây Hồ có chùa Linh Phong, nguyên là di tích của Phục Hổ thiền sư, hư phế đã lâu.

Trong niên hiệu Đạo Quang năm đầu, Doãn Thăng phát nguyện trùng hưng, tu tạo vài năm mới lạc thành. Cư sĩ mãn phần lúc sáu mươi sáu tuổi. Khi lâm chung ông giữ chánh niệm phân minh, tự nói: “Tôi thấy vô số Bồ tát đi kinh hành ở trước mặt!”. Rồi ngồi ngay lặng lẽ mà hóa. Bấy giờ nhằm ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Đạo Quang thứ chín.

Lời Bình:

Doãn Thăng niệm Phật chỉ mong khỏi nạn, nhưng lại cảm điềm lành tốt lúc lâm chung. Thế thì ai bảo: “Công đức niệm Phật duy có lợi ích sau khi mãn phần ư?”. Xem gương trên, hai vị đều gắng sức thật tu, tin chắc không đổi. Người đời nay đem công phu chút ít, cầu lợi ích quá phần, đến khi thấy vô hiệu, trở lại cho rằng Phật pháp không linh nghiệm, rồi bỏ hết việc tu hành há chẳng đáng ngậm ngùi thương tiếc lắm ư!

Trích Mấy Điệu Sen Thanh
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm

Càng Bịnh Càng Tinh Tấn Niệm Phật An Nhiên Qua Đời Thân Thể Đẹp Hơn Lúc Sống

Càng Bịnh Càng Tinh Tấn Niệm Phật An Nhiên Qua Đời Thân Thể Đẹp Hơn Lúc SốngCư sĩ Ổ Dư Khánh thời Dân Quốc người huyện Phụng Hóa tỉnh Triết Giang tánh tình trung hậu, thuần phác. Năm Dân Quốc 35 (1946) ông đến Ðài Loan kinh doanh xưởng phụ tùng xe hơi Quốc Quang & xưởng dụng cụ giao thông Trung Lập khá thành công. Năm Dân Quốc 56 (1967) ông được đồng hương rủ đến chùa Pháp Hoa ở Ðài Bắc nghe hòa thượng Tịnh Không giảng kinh ông liền theo học Phật, tiếp nhận sự un đúc của Phật Pháp. Ông quy y với lão hòa thượng Quảng Khâm ở Thổ Thành và trưởng lão Sám Vân ở Thủy Lý, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới.

Mùa Ðông năm Dân Quốc 67 (1978), ông đến chùa Vĩnh Minh ở núi Dương Minh để thọ giới Bồ Tát tại gia. Ông nghiêm trì giới luật, chuyên tu Tịnh nghiệp, niềm tin vững vàng, ý nguyện thiết tha cầu sanh Tây Phương. Ông thường cúng Tam Bảo, phụng sự sư trưởng, bố thí làm phước chẳng tiếc sức lực. Ông cùng các liên hữu thành lập Phật Giáo Tịnh Nghiệp Lâm ở Tam Giáp Hoành Khê. Ông được cử làm Lâm Trưởng (người đứng đầu Tịnh Nghiệp Lâm), lãnh đạo đại chúng cùng trụ trong Lâm để cùng tu.

Mùa Hạ năm Dân Quốc 70 (1981), vì bịnh tật, ông phải về nhà chữa trị, nhưng niệm Phật càng thêm tinh tấn chẳng lười. Ðầu tháng Ba năm Dân Quốc 72 (1983), chợt ông bị bí đường tiểu tiện, trị liệu cách nào cũng vô hiệu, phải đưa vào bịnh viện Trung Hưng ở thành phố Vĩnh Hòa để chữa. Tuy đau đớn tột bậc, trong tâm ông vẫn niệm Phật chẳng ngớt. Ngày hai mươi mốt tháng Ba, ông chợt bảo người con trưởng đang trông bệnh rằng:

– Từ ngày mai các con đừng có đi đâu!

Ngày hôm sau, gần trưa, bác sĩ đến khám toàn thân, thấy tất cả đều bình thường, dặn dò ông phải nghỉ ngơi chu đáo, ông Ổ bảo:

– Hiện tại tôi rất thoải mái, cảm ơn ngài!

Lát sau, ông bảo đứa con gái út nâng đầu giường lên cao hơn, kê gối cho ông dựa. Cô hỏi:

– Có chuyện gì làm ba không được thoải mái hả?

– Không có!

Ðúng mười một giờ trưa, ông chợt mỉm cười, hai đùi chợt khép sát vào nhau, hai tay giở lên như thể đang co chân ngồi dậy, chắp tay; há miệng niệm Phật mà qua đời, thọ bảy mươi tư tuổi. Toàn thể quyến thuộc đều vây quanh cao giọng trợ niệm. Trưởng lão Sám Vân và các vị pháp sư, cư sĩ và đạo sư của Tịnh Nghiệp Lâm, lâm hữu v.v… cũng theo nhau đến, tính ra hơn bốn mươi người luân phiên trợ niệm. Ðến khoảng sáu giờ tối, toàn thân đều lạnh, chỉ còn mỗi đảnh đầu là ấm.

Trợ niệm đến chín giờ rưỡi mới bắt đầu rửa ráy, thay áo. Vì tứ chi của ông đã cứng đờ nên trưởng nữ dùng khăn nóng ủ lên hai khủy tay, chợt ngửi thấy mùi hương thanh khiết bốc ra từ hai tay áo ông. Ngày hôm sau đại liệm, hai tay ông mềm mại, những vệt đen trên mặt biến đâu hết, vẻ mặt ông vui tươi đẹp đẽ hơn lúc sống.

Từ lúc ấy, dù ngày hay đêm, quyến thuộc đều nghe trên không có tiếng niệm Phật, cho đến lúc pháp hội Niệm Phật bốn mươi chín ngày đã nghỉ rồi vẫn nghe có tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng tới.

(theo tạp chí Huệ Cự, bộ 22, kỳ 9)

Nhận định:

Một phen nghe giảng kinh liền theo Phật môn, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới, chuyên tu Tịnh nghiệp, đấy chính là căn lành từ bao kiếp thành thục.

Lập Tịnh nghiệp lâm để cộng tu là người tự lợi, lợi tha. Càng bịnh càng tinh tấn là mượn bịnh để tiềm tu. Chợt dặn dò ngày mai đừng đi đâu là biết trước thời khắc.

Mỉm cười chắp tay ắt là thấy Phật hiện đến tiếp dẫn. Khiến cho quyến thuộc thường nghe tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng lại để họ biết là mình đã vãng sanh trong thượng phẩm, nhằm khiến họ đều tín nguyện sanh Tây. Phàm những ai tuổi già lắm bệnh, xin hãy bắt chước ông tinh tấn!

Trích: Niệm Phật Pháp Yếu
Gương Sáng Niệm Phật
Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập

Vị Cư Sĩ Vừa Giảng Xong Kinh A Di Đà Liền Từ Biệt Mọi Người Tọa Hóa Vãng Sanh

Vị Cư Sĩ Vừa Giảng Xong Kinh A Di Đà Liền Từ Biệt Mọi Người Tọa Hóa Vãng SanhCư sĩ Lý Ngoa, tự Tế Hoa thời Dân Quốc, người huyện Như Cao tỉnh Giang Tô; tốt nghiệp từ Trắc Hội Học Ðường (Trắc Hội Học Ðường: trường dạy ngành đo lường, vẽ bản đồ.)

Năm Dân Quốc thứ nhất (1911), ông được cử về làm việc ở Trắc Lượng Cục của Lục Quân, gia nhập Ðồng Minh Hội. Khi cách mạng lần thứ hai thất bại, ông bị tống giam; lúc sắp bị xử tử, ông được người cứu khỏi, được phóng thích. Tuy vẫn phục vụ trong quân ngũ, nhưng ông ăn chay niệm Phật, dù nóng hay lạnh vẫn chẳng gián đoạn.

Từ chiến dịch Bắc Phạt trở về, ông từng đảm nhiệm các chức vụ: nghị trưởng huyện nghị hội và cục trưởng các cục kiến thiết, tài chánh v.v…

Mùa Xuân năm Dân Quốc 22 (1933), ông quy y Ấn Quang đại sư, được đặt pháp danh là Trí Thoát. Từ đấy, ông chuyên tu Tịnh nghiệp, thời khóa sáng tối đều tụng một cuốn Di Ðà, niệm Phật cả vạn tiếng. Ông nghiên cứu sâu sắc kinh điển Ðại Thừa, hạnh lẫn giải đều sâu, hoằng dương Tịnh Ðộ, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, trọn đời chẳng lười nhác.

Sau khi qua Ðài Loan, ông sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn ở Ðài Bắc, soạn cuốn Phổ Khuyến Tịnh Nghiệp Ðồng Nhân Phát Khởi Tổ Chức Trợ Niệm Vãng Sanh Ðoàn Văn để đề xướng việc trợ niệm.

Ngày hai mươi lăm tháng Hai năm Dân Quốc 51 (1962) là ngày pháp hội định kỳ của Niệm Phật Ðoàn, ông lãnh chúng niệm Phật. Sau bữa ăn trưa, ông giảng đại ý kinh A Di Ðà. Ðến hai giờ năm mươi phút giảng xong, ông từ biệt đại chúng:

– Tôi sắp đi rồi, mọi người hãy chăm chỉ niệm Phật!

Rồi ông tọa hóa giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Ðúng ba giờ năm phút, tay ông kết Di Ðà ấn như đang nhập Thiền Ðịnh. Ngày hôm sau, nhập liệm, toàn thân ông mềm mại, vẻ mặt như còn sống. Ngày mồng Bốn tháng Ba trà tỳ, thu được rất nhiều xá lợi, thọ bảy mươi chín tuổi.
(theo Lý Tế Hoa Cư Sĩ Di Tập và các báo Liên Hợp, Dân Tộc v.v…)

Nhận định:

Ấn Quang đại sư nói:“Chịu giúp người tịnh niệm vãng sanh thì cũng sẽ được hưởng báo có người trợ niệm!”. Ông Lý sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn, đề xướng trợ niệm nên được liên hữu đại chúng trợ niệm vãng sanh.

Ngôn giáo chẳng bằng thân giáo nên ông chọn đúng vào lúc pháp hội định kỳ để tọa hóa, ngõ hầu đại chúng cùng thấy cùng tin, gấp gáp bắt chước theo đồng sanh Tây Phương vậy!

Trích: Niệm Phật Pháp Yếu
Gương Sáng Niệm Phật
Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập

Sơ Lược Các Sự Tích Vãng Sanh

Sơ Lược Các Sự Tích Vãng SanhTừ xưa tới nay, muôn ngàn người ăn ở hiền lành, phần đông trước khi chết đều bị mê muội, không ai biết trước ngày giờ chết để tắm gội sạch sẽ, tỉnh táo niệm Phật hoặc biết có mùi thơm hay nghe tiếng nhạc trên không. Duy chỉ có những người tu Tịnh độ khi mãn phần có những điều dị thường như trên thì biết chắc hồn về Cực lạc.

Nay xin kể lại sơ lược vài sự tích vãng sanh xưa và nay tại nước Tàu & Việt Nam ta để quí vị Đạo Tâm rộng đường suy xét hầu tu theo Tịnh độ. Chẳng những người tu có kết quả mà loài thú biết niệm Phật cũng đặng vãng sanh.

1.- Đời Đường bên Tàu, Cư sĩ Minh Chiêm tuổi già mới tu Tịnh độ. Ông rất tinh tấn ngày đêm niệm Phật chẳng dứt. Có kẻ nói: “Ông tu muộn quá e không kịp vãng sanh”. Ông Minh Chiêm nói: Niệm Phật từ một tới mười câu còn thấy Di Đà, ta lo chi không đặng vãng sanh. Sau vì bị bệnh nên ông vào chùa Hưng Thiên, lúc quá Ngọ, ông ngồi chắp tay xây mặt qua hướng Tây mà niệm Phật. Giây lâu ông nói rằng: Phật với Quan Âm, Thế Chí đều đến rước ta. Nói xong bái rồi hết thở.

2.- Đời Tống, ba cha con của Ngụy thế Tử với một quận chúa đều tu theo Tịnh độ, trừ ra phu nhân là ăn mặn. Sau quận chúa chết yểu: sau khi liệm xong, quàn lại bảy ngày bổng nghe tiếng la từ trong quan tài “Ngộp lắm!” nội nhà mừng quá cạy nắp quan tài ra, cùng lúc ấy tiếng nhạc trên không trung trổi lên. Quận chúa bước ra thưa với mẹ rằng: Thưa mẹ, nước Cực lạc rất vui, trong ao Thất Bửu có nhiều bông sen búp lớn gần bằng bánh xe, ngoài cánh sen, cái thì nêu tên cha, hai bông nọ còn có tên hai anh nữa, con kiếm cùng không có tên mẹ nên con xin phép Đức Phật Di Đà về đây báo tin và khuyên mẹ mau tu Tịnh độ thì sẽ có một bông sen mọc ra dành cho mẹ cũng như của cha, của hai anh và của con vậy. Phật sẽ đem tòa sen ấy rước mẹ về cho Liên hoa hóa thân, ở cung đền rất cao. Muốn mặc y phục gì thời có hiện tới. Muốn ăn vật chi đều có món đó, đựng trong bát thất bảo hiện tới trước mặt, dùng xong bát biến mất khỏi rửa. Muốn nghe nhạc chi thì nhạc ấy vào tai, bằng không muốn nghe thì nhạc liền dứt. Mỗi người đều có hào quang, muốn dùng một hương nào có mùi hương nấy. Được dạo xem trăm thứ hoa thơm. Muốn ăn trái cây chi liền hiện tới khỏi hái, Ngự tửu. Phong cảnh xinh đẹp hơn thế gian trăm bề. Vả lại không có Nhật Nguyệt Tinh Tú, chỉ có hào quang sáng hơn ban ngày thập bội. Có bảy thứ chim tốt lạ; có năm sắc lông, tiếng kêu êm ái như tiếng kệ kinh. Lại mát mẻ như mùa xuân, không có mùa nực và mùa lạnh. Học đặng Lục thông, thành bậc La Hán, đi dạo trên khắp thế gian.

Tòa sen bay lẹ như nháy mắt nên con đi về đây mau tợ khảy móng tay đã tới. Việc ở Cực lạc khoái lạc mười phần kể sao cho xiết. Xin mẹ ráng tu, sau lâm chung Phật rước về đó mà thấy đủ điều. Con không dám trễ phép, cúi xin bái tạ cha mẹ con lên tòa sen về nước Cực lạc. Quận chúa tạ xong rồi bước vô quan tài mà nhắm mắt. Mùi sen thơm ngát, hào quang chiếu sáng xẹt về hướng Tây, tiếng nhạc trên không cũng trỗi lần về hướng ấy.

Từ đấy phu nhân mới tinh tấn trường chay, tu theo Tịnh độ niệm Phật hơn chồng con. Sau mỗi người lâm chung đều biết ngày giờ trước. Đến ngày Liễu đạo, phu nhân ngồi day mặt về hướng Tây, niệm Phật chưa đủ mười câu đã nghe tiếng nhạc trên không, thấy Phật rước mình đông lắm. Liền khi ấy, bà xuất hồn về cùng chư Phật. Bốn người lâm chung như vậy thiệt cả nhà có phước, sống hưởng lộc, thác được vãng sanh.

3.- Đời Tống, Dương Kiệt ở Châu Vô Vi, xưng hiệu Vô Vi Tử, thi đỗ sớm làm quan. Đi điểm tội nhân ở tỉnh Chiết Giang, vì mộ đạo Phật nên học kỹ phép tham thiền, xem kinh nhiều lắm. Ông nói với bạn rằng: “Chúng sanh nhiều người tối dạ, tham thiền không đúng uổng công. Trừ ra tu Tịnh độ dễ hiểu, dễ tu. Dầu bao nhiêu kẻ dốt, tu cũng được vãng sanh.” Người có viết Thiên Thai Thập Nghị Luận và Tịnh Độ Quyết Nghi Tập; giảng rõ phép tu tịnh độ. Tuổi già, ông vẽ tượng Di Đà cao 16 thước mộc thờ lạy. Đến lâm chung, Phật định ngày rước hồn, ngài ngồi mà viên tịch.

4.- Đời Tùy, có ông Tống Mãn ở Phủ Thường Châu, niệm Phật một câu; để một hạt đậu đen vô hộc. Lâu năm lường được cỡ 15 giạ. Khai Hoàng niên hiệu thứ tám, tháng chín đãi trai tăng, các sãi ăn rồi ngồi niệm Phật đến hết thở. Người ta thấy trên trời sa xuống mùi hương thơm một cách lạ lùng. Có tiếng nhạc trời trên không lần qua hướng Tây hồi lâu mới dứt.

5.- Đời Đường, có ông Trịnh mục Khanh, và cả nhà đều niệm Phật. Niên hiệu Khai ngươn, ông bị bệnh nặng, có người khuyên trở đũa (ăn mặn), ông không chịu. Tay bưng lư hương niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ. Xảy ngửi mùi thấy hương thơm nức. Người ông liền xuất hồn. Cậu là Tô Đỉnh, làm chức thượng thư, chiêm bao thấy ông ngồi trên bông sen lớn.

6.- Đời Minh Liên, Hoa thái Công là người nước Việt, thiệt thà ngày đêm niệm Phật chẳng ngớt. Đến lúc mãn phần liệm vô quan tài chưa kịp đem chôn, bổng nhiên một cánh bông sen mọc trên quan tài, xóm giềng khen ngợi, mới tin ông không biết chữ mà tu tịnh độ cũng được vãng sanh.

7.- Ông Trịnh Sanh là bà con bên vợ của ông Châu an Sĩ (Tác giả quyển Tây Qui Trực Chỉ), tuổi nhỏ học hay, thói quen hay kiêu ngạo, không tin Phật cho lắm. Ngày kia có bệnh, thấy quỉ đến, cao lớn dị thường, xưng là oan cừu đời trước. Trịnh Sanh sợ điếng mới niệm Phật hẳn hòi, cầu vãng sanh cực lạc. Hễ niệm Phật thường thì thôi, nếu hở ra thấy quỉ nên Trịnh Sanh ráng niệm tới mòn hơi. Người nhà thấy không biết cái gì mà mờ mờ như mây khói bay lần qua hướng Tây. Tuy không thấy điềm biết trước và không có mùi hương cùng Thiên nhạc, song cứ lý chắc đặng vãng sanh bởi vì ông ít khi niệm Phật nên không đặng linh hiển đó thôi.

8.- Tô kỳ Sơn tự Khởi Phụng, ở Côn Sơn, tuổi thơ quyết chí tham thiền, tìm nhiều thầy thông thái, nên nghe rành Tịnh độ không dám sát sanh. Tuổi già tu tịnh độ theo bốn thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu tụng nhựt khóa không lơi. Mùa đông trời lạnh ôm mền mà ngồi.

Khương Hy năm Kỷ Mão, ngày 26 tháng 11 giờ Ngọ, ông nói với cháu tên Điện Phương rằng: “Ông tu Tịnh độ đã thành công, Phật mách bảo giờ vãng sanh đã ba bữa trước, ông không muốn khoe cho chúng biết đêm nay tới giờ Tý ông sẽ được vãng sanh.” Lúc canh hai ông mặc áo dài ngồi trước bàn hương án bảo người nhà niệm Phật tiếp với mình, qua canh ba tiếng ông niệm Phật nhỏ dần cho tới hết thở.

9.- Ngô kính Sơn ở cùng xóm với Tô kỳ Sơn. Tuổi ông đã bảy mươi nhưng ông lại muốn học thêm phép tham thiền. Tô Điện Phương nói với ông: “Tuổi ông đã già rồi ông nên tu tịnh độ cho mau mà chắc vãng sanh hơn tham thiền”. Ông vâng lời niệm Phật ngày đêm chẳng dứt. Thời gian chưa đầy một năm, bà con ông Ngô kính Sơn đến nói với ông Tô điện Phương hay rằng: “Hồi sớm mai này Ngô kính Sơn thấy ông hộ pháp hiện hình, tiếp dẫn vãng sanh nên dặn tôi coi chừng ông tắt hơi rồi thì qua cho ông hay mà tạ ơn khi trước đã khuyên ông tu tịnh độ. Dặn rồi ông ngồi day mặt qua hướng Tây niệm Phật đến hết thở.”

10.- Đời Đường, thầy Duy Ngạn tu Tịnh độ rất siêng năng. Thấy Quan Âm, Thế Chí hiện trên không thầy mừng muốn họa chân dung hai vị Bồ Tát, liền khi ấy hai vị hiện đến xin vẽ rồi biến mất.

Thầy Duy Ngạn nói với các đệ tử rằng: “Ta bữa nay được vãng sanh, đứa nào muốn theo ta cho có bạn?” Có một trò nhỏ xin theo, thầy bảo về cho cha mẹ hay, nếu bằng lòng thì lạy tạ rồi đi cho mau. Cha mẹ đồng tử tưởng nó nói chơi nên cười mà bảo rằng: “Tự ý con theo thầy về Tây phương đặng thì cha mẹ cầu lắm.” Đồng tử tắm gội thay áo lại ngồi gần thầy niệm Phật mới có mười câu rồi hết thở, chết ngồi. Cha mẹ sững sờ hết nói chi được. Thầy Duy Ngạn cũng lấy làm lạ, đặt bài kệ khen đồng tử rồi ngồi tịch theo.

11.- Họ Ngô ở tỉnh Chiết Giang, ông cha đều là tú tài dưới triều Thanh, Thuận Trị năm đầu. Binh tới vây thành, cha mẹ ông bà đều chạy trốn hết. Ông họ Ngô ấy bị bắt sống dâng cho Trương tướng quân thâu làm lính hầu mới mười ba tuổi. Nghĩ rằng mình con nhà học trò, nay làm hèn hạ cũng tội báo tiền căn. Ông liền giác ngộ xin vào chùa lạy Phật ăn chay trường. Mỗi đêm ông tụng một cuốn kinh Kim Cang và niệm Phật. đến năm 16 tuổi, Trương tướng quân đem bạc phát lương cho lính, họ Ngô nhín tiền lương của mình mà thỉnh tượng Đức Phật Di Đà rồi mua đèn hương về cúng lạy niệm Phật và tụng kinh Di Đà. Đến năm Đinh Dậu ngày 22 tháng 10, họ Ngô bẩm với Trương tướng quân rằng: “Tôi muốn về Tây Phương”. Tướng quân mắng rằng nói láo. Bữa sau họ Ngô đến dinh quan đề đốc xin nghỉ phép, Đề đốc giận giao cho tướng quân đánh đòn 15 roi mà ông không hề than; lại từ giã các quan đinh rằng: “Mùng 1 tháng 11 tôi sẽ về Tây phương.” Đến ngày ấy ông tắm gội sạch sẽ, lúc canh năm mặc đồ xong thắp hương đèn lạy Phật rồi tạ Trương tướng quân trong thuyền đặng về theo Phật. Trương tướng quân tức giận sai lính đi tới chỗ chất củi làm giàn thiêu. Họ Ngô lạy hướng Tây ba lạy rồi lên ngồi trên đống chà bổi niệm Phật rồi ngâm một bài kệ, liền hả miệng ra phun lửa thiêu mình. Quân lính báo tin, quan tướng các dinh đều tựu lại đưa. Trương tướng quân kính phục, từ đấy nội nhà ăn chay, tu Tịnh độ theo cách họ Ngô giảng khi trước.

12.- Ông Thẩm thừa Tiên ở Côn Sơn, tại chợ Tuyên Hóa làm nghề thợ mộc. Trên bảy mươi tuổi ăn trường chay niệm Phật tu tịnh độ. Tuy tay không hở đục và rìu búa mà niệm Phật chẳng ngừng. Đến năm Khương Hy thứ mười, tháng ba ông biết ngày Phật rước. Trước ba bữa giã từ bà con bạn hữu và nói ngày giờ mình vãng sanh. Từ giã rồi sao không thấy rước khác nữa. Ông nói với con dâu rằng: “Mai là rằm cha sẽ vãng sanh Tây phương”. Rạng ngày gội tắm thay áo, ngồi xây mặt về hướng Tây, trước mặt để ghế thắp hương rồi niệm Phật. Ban đầu niệm lớn, dần dần nhỏ đến khi mòn hơi.

13.- Đời Đường, vợ của ông Ôn tịnh Văn ở Tinh Châu, bệnh nằm liệt giường đã lâu. Chồng khuyên niệm Phật, vợ vâng lời nằm niệm cả năm. Ngày kia chiêm bao tỉnh giấc thưa với chồng rằng: “Thiếp thấy Phật mach bảo tháng sau sẽ vãng sanh”, và dặn cha mẹ chồng ráng niệm Phật sau chắc vãng sanh như mình. Tới kỳ ngồi dậy niệm Phật bỏ xác.

14.- Đời Tống có Cung Thị ở huyện Tiền Đường, ngày đêm niệm Phật tụng kinh Di Đà. Sau có bịnh rước thầy giảng kinh. Giảng chưa rồi, bà ngồi chắp tay hết thở. Có người thiếp già cũng niệm Phật không ngớt. Đêm nọ Cung Thị về báo mộng, mách bảo rằng: “Ta đã về Tây phương Cực lạc, bảy ngày nữa người cũng vãng sanh”. Đến ngày ấy, bà thiếp đang mạnh mà chết ngồi.

15.- Đời Tống, có bà Trương thị Nữ ở quận Phần Dương, bệnh đui cặp mắt. Gặp người ta khuyên niệm Phật bà liền nghe theo. Ba năm sau mắt bà sáng lại như cũ. Sau thấy Phật và Bồ Tát đem phướn và Bảo Cái đến rước, liền ngồi mà mãn phần.

16.- Trào Thanh có bà Hạo Thi ở huyện Ty Lăng, là vợ của ông Phan hướng Cao, cũng là cư sĩ. Vợ chồng đồng tu Tịnh độ, tụng kinh Kim Cang. Hôm mai tụng nhật khóa niệm Phật y phép.. .Khương Hy năm Canh Thân tháng 7 có bệnh, biết trước ngày 27 giờ Ngọ tạ thế. Bà nói trước cho con cháu hay. Đến kỳ, con đến mời các đạo hữu đến niệm Phật tiếp và ngồi niệm Phật đến mãn phần.

Những Kẻ Dữ Cũng Được Vãng Sanh

17.- Đời Đường, Trương thiện Hòa làm nghề đồ tể chuyên giết bò, trâu. Lúc lâm chung thấy trâu bò đến cả bầy nói tiếng người đòi thường mạng. Ông sợ hối vợ rước sãi đến tụng kinh sám hối. Sãi nói: “Kinh Thập Lục Quán có nói: “Lâm chung thấy quỷ dữ, nếu lòng thành niệm Phật cũng đặng vãng sanh.” Trương thiện Hòa nói: “Ma quỉ tới nhiều lắm, đợi lấy lư hương chắc không kịp.” Tay mặt cầm đèn, tay trái thắp hương, xây mặt về hướng Tây rồi niệm Phật, chưa đủ mười câu vùng nói lớn: “Phật đến rước ta rồi”, nói rồi ông tắt thở chết ngồi.

18.- Đời Đường, Trương chung Quỳ hay làm thịt gà và bán. Ngày kia bịnh nặng thấy người mặc áo đỏ lùa bầy gà đến mổ thịt và mổ cặp mắt ông chảy máu, mang bịnh rên la. Người nhà liền rước sãi đến tụng kinh Di Đà, sãi bảo y niệm Phật mãi. Tới chừng nghe mùi thơm một cách lạ, Trương chung Quỳ hết la nhức và chết một cách êm nhẹ.

Chung Quỳ và Thiện Hòa đang bị oan hồn theo đòi nợ, nhờ chí thành niệm Phật, Đức A Di Đà cảm động cho các oan hồn trâu bò kia đầu thai hưởng phước, chúng nó mới buông tha. Xem hai sự tích này, các ông già bà cả có lỡ sát sanh trâu bò gà vịt rồi thì đừng lo sợ tu không kịp. Quý vị còn trẻ sợ không tin. Nhớ tin theo phương pháp đây thì tu chắc chắn có quả vị. Hai người đồ tể thuở nay không biết sợ tội chút nào, đến lâm chung thấy oan hồn địa ngục trước mắt kinh hãi. May có phước gặp sãi giải rành niệm Phật trối chết. Giây phút địa ngục hóa ra bông sen. Bởi Đức Phật Di Đà có nguyện: “Ai lâm chung, niệm Phật mười câu ngài sẽ rước về Tây phương.” Huống chi quí vị gặp kinh này hãy mau ăn năn, lập nguyện, tụng niệm nhiều ngày, lo chi Phật không rước?

19.- Sãi Huýnh Kha đã xuất gia mà còn ăn mặn, nhậu rượu. Sau khi ăn năn nghĩ rằng mình đã làm sãi mà như vậy, lúc lâm chung đọa địa ngục làm sao. Ông liền cậy các sãi đem chuyện vãng sanh đọc cho mà nghe. Ông ngồi xây mặt về hướng Tây nghe đọc hết các sự tích rồi đứng dậy lạy một lạy và niệm Phật. Khi đọc hết, Huýnh Kha liền niệm Phật suốt ba ngày đêm, bỏ cơm, ngủ gục chiêm bao thấy Phật bảo rằng: “Số ngươi còn sống mười năm nữa phải ráng mà tu”. Vía ông lạy Phật bạch rằng: “Cõi thế gian độc ác con tu sao nổi mười năm, xin Phật rước con về Cực lạc rồi tu và hầu hạ các Bồ Tát”. Phật nói: “Ngươi tình nguyện như vậy, thời niệm Phật ba ngày nữa ta sẽ qua rước hồn”. Huýnh Kha nhịn ăn luôn, niệm Phật cho đủ ba ngày đêm và cậy các sãi tụng kinh Di Đà đưa mình. Một lát nói lớn rằng: “Phật với các Bồ Tát đã đến rước ta”. Nói rồi quỳ lạy xong xây mặt về hướng Tây niệm Phật mà chết.

20.- Đời Tống, có Trọng Minh ở huyện Sơn Âm chùa Báo Ân, không giữ ngũ giới, lúc bịnh nói với bạn tu là Đạo Ninh rằng: “Nay ta loạn tâm, thuốc chi trị được?” Đạo Ninh nói: “Cứ niệm Phật mãi”. Trọng Minh y lời niệm Phật ròng bảy ngày hơi đã đuối quá, Đạo Ninh bảo hãy tưởng tượng Đức Phật Di Đà trong tâm. Trọng Minh y lời tưởng tượng mãi thấy hai vị Bồ Tát và Phật Di Đà rồi nhắm mắt mà chết ngồi.

Người dữ cầu vãng sanh niệm Phật phải bằng trăm phần người hiền. Nếu lo ra xao lãng, tưởng việc khác, Phật không rước ắt sa địa ngục. Xin quý vị Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ, Thủ tọa và bổn đạo, ráng trường chay niệm Phật, tinh tấn tụng kinh Di Đà ít năm hoặc ít tháng cho tới lâm chung, lo chi Đức Phật A Di Đà không rước về Tây phương, ngồi chín phẩm sen vàng. (Niệm 30 vạn biến vãng sanh, chắc chắn thấy Phật).

Nhứt là những vị trường chay, những vị tu lâu năm thường niệm Phật tụng kinh nhựt khóa thì công quả càng lớn lo chi không được về Cực lạc, liên hoa hóa thân, ngồi trên chín phẩm tòa sen.

Sự Tích Vãng Sanh Ở Nước Việt Nam

21.- Ông Trần Phong Sắc tại chợ Vũng Gù (bây giờ gọi là Long An). Ông trường chay lúc 10 tuổi và thờ Tam giáo, Nho, Thích, Đạo. Vào khoảng năm 1920, ông làm giáo học dạy chữ Nho tại trường tỉnh Long An. Ông xem kinh Đại tạng gần 30 năm mới gặp pháp môn Tịnh độ. Lúc đó ông trên 50 tuổi và bắt đầu tu theo pháp môn này. Ông có viết quyển Lão Nhơn Đắc Độ và dịch quyển Tây Quy Trực Chỉ của ông Châu an Sỹ. Cơn lâm chung, ông biết trước ngày về Tây phương, do đó ông có làm bài kệ khuyên người tu Tịnh độ (xem Tây Quy Trực Chỉ).

22.- Vào khoảng năm 1958, một cô giáo ở chợ Lớn 19 tuổi, quy y với vị Hòa Thượng Thích Khánh Anh (về sau Hòa thượng được làm pháp chủ hội Phật Giáo Tăng Già Nam Việt). Cô giáo được đặt pháp danh là Diệu Tâm, cô ăn chay trường, nuôi mẹ góa, sớm chiều công phu niệm Phật. Ngày 14 và 30 cô thường đến chùa lạy sám hối. Đến năm 21 tuổi bị bệnh cô nhờ rước thầy của cô đến tụng niệm. Đến giờ lâm chung, cô bảo đỡ ngồi dậy vì Quan Âm Bồ Tát đến rước. Lúc ấy hào quang sáng rực trên nóc nhà. Lối xóm tưởng nhà cô giáo cháy, chạy tới chữa lửa.

23.- Ông chủ Thìn làm nghề trồng rẫy ở An Hội quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Năm 1927 ông bắt đầu tu theo pháp môn Tịnh độ. Đến năm 1930, ông biết trước ngày giờ quy Tây nên làm sẵn một cái bia ghi ngày tháng như vầy: “Ngày 14 rạng mặt rằm tháng 2 năm 1930” Đồng thời ông ra nghĩa địa chôn sẵn một cái lu, đến ngày lâm chung, ông tụng kinh niệm Phật trước bàn Phật rồi đến nghĩa địa xuống lu ngồi niệm Phật lớn vài tiếng rồi tắt thở.

24.- Năm 1890, có một ông thầy thuốc ở tỉnh Gia Định. Ông thường hay làm phước, nhứt là thí thuốc. Đi đâu ông cũng mang một cái túi dùng để lượm miểng chai, và một cái chày để đóng những cây lồi lên mặt đất làm cản trở lối đi. Năm sau cùng, ông tu theo pháp môn Tịnh độ. Ông biết ngày giờ chết trước ba tháng. Ba ngày trước khi chết, ông ngồi xếp bằng và niệm Phật trước bàn Phật. Mỗi ngày chỉ ăn vài chén cháo trắng. Đến 12 giờ ngày cuối cùng, ông tắt thở.

Loài Vật Biết Nói Tiếng Người Đặng Vãng Sanh

25.- Đời Đường niên hiệu Trinh Ngươn, tại quận Hà Đông có nàng Bùi Thị nuôi một con két lớn ( Tàu kêu Anh Võ). Bởi biết nói tiếng như sao sáo, bắt chước niệm Phật. Thường quá giờ Ngọ thời chẳng ăn. Rốt lại niệm Phật mười hơi mới chết. Chủ đốt thử coi, được mười mấy hột Xá Lợi sáng ngời như hột châu chói mắt. Sãi Huệ Quang thấy vậy xây tháp nhỏ, đựng những hột Xá Lợi vào hộp nhỏ để trong tháp gọi là tháp Anh Võ. Có dựng bia khắc chữ thuật sự tích nó.

26.- Đời Đường, núi Huỳnh Nham, chùa Chánh Đẳng, ông họ Quan có nuôi một con sao sáo, niệm Phật không ngừng. Ngày kia con sáo chết đứng trong lồng. Chủ đào lổ chôn nó. Không bao lâu mọc lên một nhánh bông sen đỏ sậm. Moi thử coi, gốc nhánh sen trong miệng nó (chắc là cái lưỡi hóa sen).

27.- Huyện Đàm Châu, có người nuôi một con cưỡng, nó thường niệm Phật. Khi nó chết, chủ lấy một hộp mỏng đựng mà chôn. Sau cũng mọc lên một nhánh bông sen hường. Moi thử gốc sen, chính cái lưỡi nó (thiệt thổ liên hoa).

Liên Trì đại sư nói: “Người ta bây giờ hay dạy con keo (Anh ca) với sáo niệm Phật chơi. Nó cũng niệm ít tiếng như nhái chớ không niệm thường nên chẳng thấy con nào vãng sanh nữa!” Ôi! Ví như người tin mà niệm hết lòng, còn kẻ niệm cầm chừng lấy có nên cũng thời niệm Phật có người chẳng đặng vãng sanh so với keo, sáo, cưỡng kia cũng thế

Trích trong Tây-Qui Trực-Chỉ và Lão-Nhơn Đắc-Ngộ
Soạn Giả: Cư Sĩ Thiện Tâm

Lâm Chung Trì Chú Không Tiêu Nghiệp Liền Bỏ Trì Chú Để Niệm Phật Biết Trước Ngày Vãng Sanh

Lâm Chung Trì Chú Không Tiêu Nghiệp Liền Bỏ Trì Chú Để Niệm Phật Biết Trước Ngày Vãng SanhCư sĩ Trương Trân Ngọ thời Dân Quốc, sang Nhật học Y và học Mật Tông. Sau ông mắc bịnh thũng, nghiệp cảnh hiện tiền. Lúc bình thường, ông trì chú thấy có linh nghiệm, lúc này trọn không có hiệu quả gì. Ông bèn chuyên niệm Phật thì nghiệp cảnh mới tiêu diệt. Ông liền dẹp hết thuốc men, nhất tâm trì danh. Vợ ông khuyên hãy nên ăn uống, ông bảo:

– Bà đừng khuấy nhiễu tôi, chỉ nên giúp tôi niệm Phật và thỉnh đạo hữu họp lại trợ niệm. Tôi sẽ đi trong ngày hôm nay.

Ðạo hữu đến, đồng thanh trợ niệm. Ông cũng nương theo đó, niệm theo rõ ràng; đoạn kết ấn, niệm Phật mà qua đời.

(Theo Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, bản in lần thứ ba)

Nhận định:

Lâm chung nghiệp cảnh hiện tiền, há chẳng phải là để thấy trước ác đạo đó chăng? Lúc ấy, trì chú hoàn toàn chẳng có công năng gì, may nhờ chuyển sang niệm Phật và nhóm đạo hữu lại trợ niệm thì nghiệp mới tiêu, được vãng sanh. Những kẻ bỏ Tịnh Ðộ để tu Mật, khá nên lấy đó làm gương!

Trích Niệm Phật Pháp Yếu
Gương Sáng Niệm Phật
Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập