Ngũ Khoa Tịnh Độ

Ngũ Khoa Tịnh ĐộPHẦN MỤC LỤC

1. Tam Phước.

Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.

Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.

Phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

2. Lục Hòa Kính.

Kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân.

3. Tam Học.

Giới, Định, Huệ.

4. Lục Độ.

Lục độ là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.

5. Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát.

Lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế, thường tùy Phật học, hằng thuận chúng sanh, phổ giai hồi hướng.

PHẦN GIẢI THÍCH

1. Tam Phước.

Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.
Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.

Phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

Trong kinh Quán Vô Lượng thọ Phật gọi là Tịnh Nghiệp Tam Phước, ba thứ tịnh nghiệp này là Tam Thế Chư Phật Tịnh Nghiệp Chánh Nhân, câu này vô cùng quan trọng, khiến cho chúng ta hiểu rõ ba đời tất cả chư Phật tu hành chứng quả, đều phải y theo Tam Phước làm nền tảng, thì cũng như chúng ta xây cất nhà lầu vậy, bất luận là xây cao bao nhiêu tầng, đều phải đắp nền móng. Tịnh Nghiệp Tam Phước là nền móng, là nền tảng cộng đồng của Phật pháp, nhất định là phải từ trên nền tảng này xây dựng, mới có thể thành tựu tất cả Phật pháp, điều này vô cùng vô cùng quan trọng.

Phước báo nhân thiên. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.

Phước báo nhị thừa. Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.

Phước báo đại thừa. Phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

A. Phước báo nhân thiên: Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.

Hiếu dưỡng cha mẹ, chữ hiếu này thuộc về hội ý, chúng ta phải thể hội ý nghĩa của chữ này, trên là chữ Lão, dưới là chữ Tử, tức là bảo với chúng ta rằng, đời trước và đời sau là một thể, là một chẳng phải hai… Hay nói cách khác, toàn cả vũ trụ là một chữ Hiếu, tận hư không biến pháp giới là một chữ Hiếu… Chẳng những chúng ta nuôi dưỡng cái thân của cha mẹ, còn phải nuôi dưỡng cái tâm của cha mẹ, nuôi dưỡng cái chí của cha mẹ. Trong Giới Kinh nói: tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta. Đem cái tâm hiếu thuận cha mẹ phát dương quang đại, tận hư không biến pháp giới, tức là Hiếu Đạo.

Phụng thờ sư trưởng. Phật pháp là sư đạo, lấy hiếu đạo làm nền tảng, không có hiếu đạo thì không có sư đạo… Cho nên phải hiếu thuận cha mẹ cũng phải tôn kính thầy… Hiếu kính là tánh đức, chỉ có tánh đức mới có thể khai phát tự tánh… Đây là căn cơ của căn bản, vô cùng quan trọng… Người biết hiếu thuận cha mẹ thì biết tôn kính sư trưởng… Phật là vị thầy sớm nhất của chúng ta, Ngài chỉ dạy chúng ta phải tôn kính sư trưởng… Chúng ta tôn thờ tượng Phật Bồ Tát, và thờ Tổ Tiên, khi nhìn thấy hình tượng của Phật Bồ Tát, thì chúng ta nghĩ đến hiếu kính, hiếu thân tôn sư.

Lòng từ bi không giết hại, từ bi là tánh đức, là một khoa mục vô cùng quan trọng, lòng hiếu kính mở rộng tức là từ bi, có lòng từ bi thì không sát sanh, cái dụng ý này rất sâu… Trong tất cả ác nghiệp, sát nghiệp là nặng nhất. Tại vì sao? vì tất cả chúng sanh có mạng sống, không một ai mà không trân quí cái mạng sống của mình, không có một ai mà không tham sống sợ chết… Cho nên chúng ta không thể sát sanh, sát sanh là bất kính với Phật, là bất hiếu với cha mẹ, bởi vì Phật dạy chúng ta phải giữ giới căn bản, giới thứ nhất là không sát sanh, nếu chúng ta còn sát sanh, thì làm trái nghịch lời dạy của Phật, tức là không tôn kính sư trưởng cũng không hiếu thuận cha mẹ… Sát hại chúng sanh, chẳng những mất đi lòng từ bi cũng mất đi lòng hiếu kính.

Tu thập thiện nghiệp, thập thiện nghiệp là tiêu chuẩn thiện pháp của thế gian… Phật bảo với chúng ta rằng, phát tâm tu thập thiện nghiệp, thì tuyệt đối không đọa tam ác đạo, thượng phẩm thập thiện có thể sanh lên cõi trời, nếu có tu thêm thiền định, và tứ vô lượng tâm, tức là Từ Bi Hỷ Xả, thì có thể sanh lên cõi trời sắc giới và cõi vô sắc giới. Phật quy nạp thập thiện nghiệp thành ba đại loại, tức là Thân, Khẩu, Ý.

Thân nghiệp có ba, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, đây là đối với các bạn đồng tu tại gia mà nói, nếu là người xuất gia thì không dâm dục, phải đem lòng tham ái đoạn cho được sạch sẽ rốt ráo. Trộm cắp tức không cho mà lấy, lậu thuế cũng là trộm cắp, trộm cắp của nhà nước, tạo cái nghiệp này rất nặng… Cho nên người chân chánh học Phật, nhất định phải tuân thủ pháp luật của nhà nước… Không phạm giới sát, không phạm giới dâm, không phạm giới trộm cắp, thì gọi là thân nghiệp thanh tịnh.

Khẩu nghiệp có bốn, một là vọng ngữ, tức là nói láo, nói lời lừa gạt người khác, nói không thành thật. Hai là lưỡng thiệt, tức là hai lưỡi, khiêu khích thị phi, nói lời thêm bớt, khiến cho hai người bất hòa với nhau, tạo cái nghiệp cũng rất nặng.

Ba là ác khẩu, tức là nói lời không có lễ phép, nói lời thô lỗ, khiến cho người nghe cảm thấy khó chịu. Bốn là ỷ ngữ, là hoa ngôn xão ngữ, nói lời thêu dệt, nói được rất hay, khiến cho người nghe bị quyến rũ, nhưng dụng ý bất thiện, như hiện nay trên xã hội, nào là điện ảnh, ca vũ, âm nhạc, thấy chẳng có gì là ác, nghĩ lại những thứ này là loại giáo dục gì cho mọi người? Đều là dạy người sát sanh, trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ, đây thuộc về ỷ ngữ, nếu lìa khỏi bốn loại khẩu ác nghiệp, thì khẩu nghiệp thanh tịnh.

Ý nghiệp có ba, tức là Tham, Sân, Si. Tham là tham ái, bao gồm keo bẩn, thường nói là sân tham, dục vọng không có thỏa mãn, thí mạng đi tìm cầu, hy vọng đạt được thỏa mãn, đây là lòng tham, một khi đã đạt được, thì không chịu buông xả, không chịu bố thí giúp đỡ cho người khác, thì gọi là keo bẩn, đối với sự tu học là một chướng ngại rất lớn. Phật chỉ dạy cho chúng ta phương pháp bố thí để đối trị lòng tham. Kế đến là sân, tức là sân hận, tham không được thì sanh lòng sân hận, lòng sân hận là phiền não rất lớn, cho nên Tham Sân Si là tam độc phiền não. Lòng tham là nghiệp nhân của ngạ quỷ. Lòng sân hận là nghiệp nhân của địa ngục. Ngu si là nghiệp nhân của súc sanh. Cái gì gọi là ngu si? tức là chẳng có trí huệ, pháp thế gian và Phật pháp có chân có giả, có chánh có tà, có phải có quấy, có thiện có ác, họ không thể phân biệt, nhận thức không rõ ràng, đem giả cho là chân, đem tà cho là chánh, đây là ngu si, bất luận họ có ý hay vô ý. Tam độc phiền não là chướng ngại minh tâm kiến tánh rất nghiêm trọng, chúng ta tu học Phật pháp phải tu từ căn bản, căn bản là tâm, phải đoạn trừ Tham Sân Si, thì chân tánh mới hiện ra.

B. Phước báo nhị thừa: Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.

Thọ trì tam quy, trước tiên nhập Phật môn thì phải bái Lão Sư (lạy Thầy), cầu truyền thọ tam quy, là một việc rất long trọng, cũng là chánh thức lạy Thích Ca Mâu Ni Phật làm Thầy, tự nguyện một đời y theo lời dạy bảo của Thầy mà tu học, thật sự tu hành, được Thầy truyền thọ tổng cương lĩnh và nguyên tắc phương pháp tu học, gọi là truyền thọ Tam Quy Y. Tam Quy là Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng… Nếu từ trên ý nghĩa mà nói, tức là Quy Y Giác, Quy Y Chánh, Quy Y Tịnh. Phật là Giác, Phật là ý nghĩa Giác Ngộ. Pháp là Chánh, Pháp là Chánh Tri Chánh Kiến. Tăng là Tịnh, sáu căn thanh tịnh, một hạt bụi không nhiễm. Cho nên cái y cứ chủ yếu tu hành của chúng ta, là y theo tự tánh Giác, tự tánh Chánh, tự tánh Tịnh, gọi là tự tánh Tam Bảo.

Quy Y Phật, cái gì gọi là Quy Y? Quy là hồi đầu, Y là nương tựa, Phật chỉ dạy cho chúng ta, phải từ mê hoặc điên đảo hồi đầu, nương tựa tự tánh Giác, tự tánh vốn là Giác, Quy Y Phật không phải Phật bên ngoài, là Quy Y tự tánh Phật,

Đây là tự tánh Phật Bảo. Trong Tịnh Tông nói, tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, cho nên Quy Y tự tánh Phật, tức là Quy Y tự tánh Giác, Giác mà không mê, mới là chân chánh Quy Y Phật.

Quy Y Pháp, tức là cách nghĩ cách nhìn cách làm của chúng ta đối với vũ trụ nhân sanh hoàn toàn cùng với chân tượng sự thật phù hợp, tư tưởng chính xác, kiến giải chính xác, tại trong kinh Phật gọi là Chánh Tri Chánh Kiến, hoặc là Phật Tri Phật Kiến, đây là tự tánh Pháp Bảo, không phải bên ngoài đến, Phật dạy chúng ta từ cách nghĩ cách nhìn cách làm sai lầm hồi đầu trở lại, nương theo Chánh Tri Chánh Kiến của tự tánh, gọi là Quy Y Pháp.

Quy Y Tăng, Tăng là ý nghĩa thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh, sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý, tiếp xúc cảnh giới bên ngoài sáu trần, sáu trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Người phàm phu khi sáu căn tiếp xúc sáu trần thì bị ô nhiễm, khởi lên lòng tham, lòng tham là ô nhiễm, chúng ta phải từ tất cả ô nhiễm hồi đầu trở lại, nương theo tâm thanh tịnh của mình, đây là tự tánh Tăng Bảo, tức là Quy Y Tăng.Tam Quy Y, tổng kết mà nói, Quy Y Phật tức là Giác mà không mê. Quy Y Pháp tức là Chánh mà không tà. Quy Y Tăng tức là Tịnh mà không nhiễm.Ngoài ra, còn có trụ trì Tam Bảo, trụ trì Tam Bảo tức là tượng Phật, kinh điển, người xuất gia. Ba thứ này tuy không phải là chổ Quy y chân chánh của chúng ta, nhưng tác dụng của nó tượng trưng cho Tam Bảo trụ thế, có thể đánh thức chúng ta hồi đầu nương tựa… Trụ trì Tam Bảo đối với chúng ta có sự lợi ích công đức rất lớn. Nên biết, Quy y không phải Quy y một vị pháp sư nào, pháp sư chỉ là đại biểu cho tăng đoàn, họ đem ý nghĩa của Tam Quy và cương yếu tu học truyền thọ cho chúng ta… Chúng ta từ trong tâm hồi đầu, nương tựa tự tánh Giác, Chánh, Tịnh, đây mới là chân chánh Quy Y Tam Bảo.Giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi, các giới tức là có rất nhiều giới điều, quan trọng nhất là ngũ giới, ngũ giới là căn bản đại giới của nhà Phật. Xuất gia Sa Di và Sa Di Ni phải giữ 10 giới, Tỳ Kheo phải giữ 250 giới, Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới. Thật ra giới điều chỉ có phía trước 17 điều, tức là 4 giới trọng và 13 giới tăng tàn, đây thuộc về giới, những giới điều khác thì thuộc về oai nghi. Oai nghi là gì? Oai nghi là lễ phép, lễ tiết, tức là trong cuộc sống hằng ngày xử thế, đối người, tiếp vật, phải tuân thủ quy củ… Trong ngũ giới điều thứ nhất không sát sanh, điều thứ hai không trộm cắp, điều thứ ba không tà dâm, điều tứ tư không vọng ngữ, điều thứ năm không uống rượu, bốn điều phía trước là tánh tội, bất luận có thọ giới hay không thọ giới, hể phạm đều là có tội… Những người có thọ giới đã phạm thì gọi là phá giới, chỉ có điều thứ năm không uống rượu, người không thọ thì không phạm tội… Chúng ta phải hiểu rõ giới điều, thì mới có thể trì giới… Mỗi một giới điều cũng có Khai, Giá, Trì, Phạm. Ở dưới trường hợp nào là Khai giới, không phải Phạm giới, ở dưới trường hợp nào Trì giới, không thể Giá giới… Giới luật là hành trì của Phật, không có giới luật thì không có Phật pháp.

C. Phước báo đại thừa: Phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

Đại thừa là xây dựng trên nền tảng của tiểu thừa, phước báo đại thừa có 4 câu.

Một. Phát bồ đề tâm, cái gì gọi là Bồ đề tâm? Bồ đề là tiếng phạn, dịch là giác ngộ, Bồ đề tâm tức là cái tâm thật sự giác ngộ, cái tâm chân thật không mê, đã giác ngộ cái gì? Giác ngộ đời người quá khổ, thường nói là tam khổ bát khổ… Sau khi giác ngộ, nhất định phải y theo phương pháp của Phật dạy tu hành, thì tự nhiên lìa khổ được vui, ra khỏi tam giới, vãng sanh tịnh độ, mới thật sự là phát Bồ đề tâm.

Hai. Tin sâu nhân Quả, cái phước báo thứ ba này là Bồ Tát sở tu, cái nhân quả này không phải nhân quả thông thường, chúng ta cũng hiểu, thiện có thiện báo, ác có ác báo, thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả. Phật khuyên Bồ Tát tin sâu nhân quả, là Phật tại trong Kinh Hoa Nghiêm có nói: Thập Địa Bồ Tát thủy chung không rời niệm Phật, từ Sơ Địa cho đến Đẳng Giác, 11 ngôi vị thứ. Họ tu cái gì? Họ tu pháp môn niệm Phật, thì ra chổ này nói nhân quả là chỉ cho, niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Cho nên Phật ở chổ này khuyên Bồ Tát tin sâu nhân quả, tức là niệm Phật là nhân, thành Phật là quả.

Ba. Đọc tụng kinh đại thừa, đây là Bồ Tát thiện, Bồ Tát học Phật, không thể một ngày không thấy Phật, không thể một ngày không đọc tụng kinh đại thừa, nên biết, đọc kinh không phải là đọc cho Phật nghe. Kinh là do Phật nói, Phật đâu có cần chúng ta đọc cho Ngài nghe, chúng ta đọc kinh là tiếp nhận lời dạy bảo của Phật, để đánh thức chính mình, dạy cho chúng ta khi khởi tâm động niệm, xử thế, đối người, tiếp vật, không làm trái nghịch lời của Phật dạy… khi hiểu rõ phương pháp và mục đích của việc đọc tụng kinh điển, thì phải y theo cương lĩnh mà tu học, mới có thể đạt được công đức lợi ích của Phật pháp thù thắng.

Bốn. Khuyến tấn người tu hành, tức là phải khuyên mọi người nên học Phật, giúp đỡ mọi người tu hành tinh tấn, khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, đây là hạnh Bồ Tát.

2. Lục Hòa Kính.

Kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân.

1. Kiến hòa đồng giải, tức là xây dựng cùng ý thức chung, ở trong một đoàn thể, chúng ta đối với phương pháp và lý luận của sự tu học, nhất định phải có cùng chung một kiến giải, đây là nền tảng cộng tu của đại chúng.

2. Giới hòa đồng tu, mọi người khi đã cùng ở chung với nhau tu học, thì phải lập ra một quy củ, nếu không có quy củ thì là sẽ loạn, không có trật tự, dĩ nhiên là có một quy ước cùng ở chung với nhau, nhất định bao gồm giới căn bản của Phật đã chế định, mọi người nhất định phải tuân thủ.

3. Thân hòa đồng trụ, tức là mọi người cùng ở chung một nơi tu hành, xây dựng đạo tràng là thành tựu cho mỗi một phần tử, mục đích là ở chổ này, tuyệt đối không phải trốn tránh trách nhiệm xã hội, mà vào trong Phật môn tìm đường sống. nếu có cái quan niệm này, thì là hoàn toàn sai lầm, mọi người sinh hoạt trong đạo tràng đều bình đẳng như nhau.

4. Khẩu hòa vô tranh, đây là nói mọi người cùng ở chung với nhau không có tranh luận, thật sự có thể dụng công tâm hướng theo đạo, mọi người ở chung với nhau, rất dể dàng tạo khẩu nghiệp, cho nên người xưa thường nói: bịnh từ miệng vào, họa từ miệng ra. Cổ đức dạy cho chúng ta: nói ít một câu, niệm thêm Phật hiệu.

5. Ý hòa đồng duyệt, đây tức thường hay nói Pháp Hỷ Sung Mãn,chúng ta học Phật, bất luận tu học pháp môn nào, sự thành tựu kém cõi nhất, tức là được hoan hỷ, giả như học Phật, mà không đạt được khoái lạc, nhất định là có vấn đề, tức là phương pháp đã dùng sai, phải tự mình kiểm thảo tìm ra khuyết điểm, mọi người cùng nhau tu hành, người đều được pháp hỷ, người người đều được thành tựu.

6. Lợi hòa đồng quân, đây là nói mọi người cùng ở chung một nơi tu hành, cuộc sống vật chất là bình đẳng, tài nguyên của đạo tràng, vào thời xưa, một phần là do nhà vua hộ trì, tức là do nhà nước xây dựng thập phương đạo tràng, kế đến là những vị đại phú trưởng giả quyên gốp ủng hộ, đạo tràng xây cất xong, thì thỉnh những vị cao tăng đại đức đến làm trụ trì, tu hành, giáo hóa chúng sanh, cho nên bất luận là nhà nước cúng dường, hoặc là đại chúng ở địa phương cúng dường vật chất, phàm là ở trong ngôi đạo tràng này, đều được hưởng thụ nhất loạt bình đẳng.

3. Tam Học.

Giới, Định, Huệ.

Cái gì gọi là Giới Định Huệ Tam Học? những chúng sanh tạo thập ác nghiệp, thì Phật dùng Giới học để đối trị, Giới học là thuốc để đối trị ác nghiệp.

Tâm của chúng sanh tán loạn, không được định, không được thanh tịnh, thì Phật dùng Định học để đối trị, Định học là đối trị tâm tán loạn.

Chúng sanh ngu si, không biết tà chánh, thiện ác, phải quấy, đúng sai, lợi hại, thì Phật dùng Huệ học để đối trị.

Nói tóm lại, chúng sanh tạo ác, tán loạn, ngu si, thì Phật dùng Giới Định Huệ để đối trị.

4. Lục Độ.

Lục độ là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.

1. Bố Thí: Bố thí có ba loại, tức là Tài thí, Pháp thí, Vô úy thí. Tài thí thì được giàu có. Pháp thí thì được thông minh trí huệ. Vô úy thí thì được khoẻ mạnh sống lâu. Cho nên muốn được giàu có, thông minh trí huệ, khỏe mạnh sống lâu, nhất định phải phát tâm tu tài thí, pháp thí và vô úy thí.

2. Trì Giới: Trì giới tức là thủ pháp, tất cả vạn sự vạn vật thế gian và xuất thế gian, bất luận lớn nhỏ, cũng có phép tắc của nó, nhất định phải thuận theo phép tắc, thì mới có thể làm được cứu cánh viên mãn. Trong Lục Độ, Trì giới là bảo chúng ta lúc bình thường phải giữ phép tắc, không chỉ là thọ trì ngũ giới hoặc thập giới, đây là giới căn bản, mà là bảo chúng ta ở trong gia đình phải có quy củ, cha con, vợ chồng, anh em, đây là luân thường, phải có thứ tự lớn nhỏ, không được đảo lộn. Tại trong Phật cũng vậy, phải theo thứ tự tu học, trước tiên phải phát đại tâm, đại tâm tức là tâm nguyện phải độ tất cả chúng sanh, sau đó đoạn phiền não, đoạn tập khí, kế đến học pháp môn, sau cùng viên thành Phật đạo.

3. Nhẫn Nhục: Nhẫn nhục tức là nhẫn nại, bất luận làm sự việc gì, cũng phải có tâm nhẫn nại, nếu không có tâm nhẫn nại, làm bất cứ việc gì cũng không thể thành tựu, tâm nhẫn nại là một điều kiện vô cùng quan trọng. Đức Thế Tôn tại trong Kinh Kim Cang nói về Bồ Tát tu lục độ, đặc biệt nhấn mạnh Bố thí và Nhẫn nhục, hai điều này là then chốt của sự tu hành thành công hay thất bại.

4. Tinh Tấn: Tinh là chuyên tinh, chuyên nhất, Tấn là tiến bộ, do đây có thể biết, Phật pháp không phải bảo thủ, cũng không phải rớt lại phía sau, Phật pháp là ngày ngày đều cầu tiến bộ… trong vô lượng pháp môn, nhất định phải nhất môn thâm nhập, mới có thể thành tựu, nếu môn nào cũng muốn học, thì tuyệt đối không thể thành tựu, học một môn khi đã thành tựu rồi, thì hiểu hết tất cả những môn khác. Cho nên nói một thông tất cả đều thông, như pháp môn niệm Phật phải chuyên tu… Bất luận là pháp thế gian hoặc xuất thế gian, nếu muốn trong đời này được thành tựu, nhất định phải biết tinh tấn, bất luận là niệm Phật, tham thiền, trì chú, hoặc là nghiên cứu giáo lý, cũng phải biết tuân thủ cái nguyên tắc này. Nếu như tự mình phát tâm tu học, và cũng muốn giúp đỡ cho người khác, tốt nhất trong một đời chỉ học 1 bộ kinh, chuyên giảng 1 bộ kinh, đây mới là chuyên tinh. Phật Bồ Tát dạy cho chúng ta tu học phải nhất môn thâm nhập, thì gọi là tinh tấn, công đức lợi ích của tinh tấn vô lượng vô biên.

5. Thiền Định: Thiền định là bao gồm cả thiền định của thế gian và xuất thế gian, thiền định thế gian là nói Tứ thiền Bát định, nếu như tu thành, thì tương lai sanh lên cõi sắc giới, vô sắc giới. Thiền định xuất thế gian có Đại thừa và Tiểu thừa, chư Phật Như Lai tu thiền định, chúng ta gọi là Thượng Thượng Thiền Định xuất thế gian, cái then chốt tu học toàn cả Phật pháp là ở nơi Định, không phải chỉ có Thiền tông mới tu Thiền định, còn những tông phái khác không tu Thiền định. Như niệm Phật mà nói, mục đích niệm Phật là phải đạt đến nhất tâm bất loạn, nhất tâm bất loạn tức là thiền định, Giáo hạ tu chỉ quán, chỉ quán cũng là Thiền định, trong Mật tông tu tam mật tương ứng, tương ứng tức là Thiền định, do đây có thể biết, mỗi một tông phái, pháp môn, tuy dùng danh từ khác nhau, thật ra cũng là tu Định.

6. Trí Huệ: Tiếng Phạn gọi là Bát nhã, Trí huệ Bát nhã là ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày… đối với tất cả pháp đã hiểu rõ, thông đạt, mà không chấp trước tất cả pháp, tận tâm tận lực đi giúp đỡ người khác. Vì sao phải đi giúp đỡ cho người khác? Vì chư Phật Bồ Tát hiểu được tận hư không biến pháp giới, tất cả chúng sanh đều cùng với mình đồng một thể, đã là đồng một thể, cho nên giúp đỡ tất cả chúng sanh không cần nói điều kiện, gọi là Đồng Thể Đại Bi, Vô Duyên Đại Từ.

Nói tóm lại, làm tất cả việc đều có phương pháp, đều có thứ tự, thì gọi là Trì Giới. Có tâm nhẫn nại, có nghị lực, gọi là Nhẫn Nhục. Chuyên tinh không giải đãi nhất môn thâm nhập, gọi là Tinh Tấn. Trong tâm có thể làm chủ được, không bị ngoại cảnh lay động, gọi là Thiền Định. Đới với tất cả vạn sự vạn vật đều thấu triệt, rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch, gọi là Trí Huệ Bát Nhã.

5. Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát.

Lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế, thường tùy Phật học, hằng thuận chúng sanh, phổ giai hồi hướng.

Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát là ở trong Kinh Hoa Nghiêm, đây là pháp môn thành Phật, là pháp môn lý nhất tâm bất loạn, là cảnh giới của pháp thân đại sĩ, đặc sắc của hạnh Phổ Hiền, tức là tâm lượng quảng đại như hư không pháp giới vậy. Cho nên thập nguyện của Phổ Hiền, nguyện nguyện đều cứu cánh viên mãn.

Một. Lễ kính Chư Phật, hai chữ Chư Phật này, Phật tại trong Kinh Hoa Nghiêm bảo với chúng ta rằng: Tình và Vô Tình, đồng viên chủng trí. Đây tức là Chư Phật, Tình là chỉ cho tất cả hữu tình chúng sanh, tức là tất cả động vật. Vô Tình là thực vật và khoáng vật. Cho nên Chư Phật là bao gồm sở hữu tất cả, đem cái tâm cung kính của chúng ta đối với Phật, chuyển qua đối với tất cả chúng sanh, đây tức là tâm Phổ Hiền… Tâm cung kính của Phổ Hiền là chân thật, chúng ta cung kính Chư Phật như thế nào, thì cung kính tất cả chúng sanh như thế đó, sự cung kính hoàn toàn như nhau. Tại vì sao? vì tất cả chúng sanh vốn tự thành Phật, nếu đắc tội với một chúng sanh nào thì đắc tội với Phật, tức là đối với Phật bất kính, phải đối với tất cả chúng sanh cung kính, đây là hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền viên mãn nhất, Phương pháp tu hành thù thắng nhất.

Hai. Xưng tán Như Lai, câu thứ nhất Lễ kính Chư Phật, vì sao câu thứ hai Xưng tán Như Lai, không gọi là Xưng tán Chư Phật, cái dụng ý này rất sâu. Lễ kính Chư Phật là từ trên hình tượng mà nói, từ trên tướng mà nói nhất loạt phải cung kính, nhìn thấy người thiện cung kính, nhìn thấy người ác cũng phải cung kính, không phân biệt thiện ác, không phân biệt tà chánh, cung kính chánh pháp, cũng cung kính tà pháp. Xưng tán Như Lai, là từ trên tánh mà nói, cái khác biệt ở chổ này, thiện thì chúng ta xưng tán họ, không thiện thì chúng ta không xưng tán họ, chỉ cung kính mà không xưng tán, chổ khác biệt ở tại đây.

Ba. Quảng tu cúng dường, đặc sắc của hạnh Phổ Hiền, là tâm lượng quảng đại như hư không pháp giới, tại trong Phật pháp đại thừa là tánh đức viên mãn khởi dụng… Cho nên tánh đức của Phổ Hiền Bồ Tát khởi dụng là viên mãn, nguyện nguyện đều là tận hư không biến pháp giới… Ngoài cúng dường, cúng dường một đức Phật tức là cúng dường tất cả chư Phật, không những cúng dường tất cả chư Phật đã thành Phật, cũng cúng dường Tình và Vô Tình chúng sanh chưa thành Phật, cho nên một là tất cả, tất cả là một, đây là phương pháp tu học của Bồ Tát, cũng tức là cảnh giới của Hoa Nghiêm.

Bốn. Sám hối nghiệp chướng, tất cả chúng sanh đều có nghiệp chướng, khi khởi tâm động niệm thì là tạo nghiệp, nhất định sanh ra chướng ngại. Chướng cái gì? Là chướng bản tánh của chúng ta, trong bản tánh chân tâm của chúng ta, có vô lượng trí huệ, có vô lượng đức năng, hiện tại trí huệ, đức năng, thần thông vì sao không thể khởi tác dụng… Vì có nghiệp chướng, tu hành khó thành tựu, nếu muốn nghiệp chướng sám trừ, chỉ cần thật sự phát nguyện sữa lỗi, chí thành niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tịnh độ, thì nghiệp chướng sẽ tiêu trừ. Pháp sư Từ Vân có nói: Tất cả kinh chú khó mà tiêu nghiệp chướng, chỉ có một câu A Di Đà Phật này mới có thể tiêu nghiệp chướng. Đây là sự thật… Muốn sám hối nghiệp chướng, chỉ có niệm Phật mới là chân thật sám hối… Chân thật niệm Phật thì tiêu trừ tất cả tội chướng.

Năm. Tuỳ hỷ công đức, là đối trị cái phiền não nặng nhất của người phàm phu, đó là cái tâm ganh ghét, cái tâm ganh ghét là sẳn có khi sanh ra, có cái tâm ganh ghét này, đối với sự tu học là một chướng ngại rất lớn. Cho nên Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta phải tu tùy hỷ công đức, chẳng những không ganh ghét người ta, mà còn tùy hỷ, khi nhìn thấy người ta làm việc thiện, làm việc tốt, mà có thể sanh lòng vui mừng, tận tâm tận lực đi giúp đỡ cho họ được thành tựu, nhà Nho nói: Thành nhân chi mỹ, thành nhân chi thiện. Nên biết thành tựu cho người khác, tức là thành tựu cho mình, cái phương pháp tùy hỷ công đức này rất thù thắng.

Sáu. Thỉnh chuyển pháp luân, chúng ta là đệ tử Phật, chịu sự giáo dục của Phật, đạt được sự lợi ích chân thật, chúng ta phải dùng phương pháp gì để báo ơn Phật? Nên biết tâm nguyện của Phật, là hy vọng tất cả chúng sanh có thể nghe được chánh pháp, y theo Phật pháp tu học, sớm được viên thành Phật đạo… Cho nên muốn thật sự báo ơn của Phật, tức là Thỉnh chuyển pháp luân, dùng lời hiện nay mà nói, tức là lễ thỉnh Pháp sư đại đức đến giảng kinh thuyết pháp, hoằng pháp lợi sanh, đây là phước đức rất lớn, người đứng ra lễ thỉnh Pháp sư đến giảng kinh thuyết pháp, cái phước báo này rất lớn.

Bảy. Thỉnh Phật trụ thế, Thỉnh chuyển pháp luân mục đích chủ yếu là tuyên truyền Phật giáo, đem giáo pháp của Phật giới thiệu rộng rãi cho mọi người, trong đời này của chúng ta muốn tu học có được thật sự thành tựu. Thỉnh chuyển pháp luân vẫn chưa đủ… Cho nên nhất định phải Thỉnh Phật trụ thế, tức là phải lễ thỉnh vị Thầy có đức hạnh đến thường trú lâu dài, để chỉ dẫn cho chúng ta, chúng ta có thời gian lâu dài tiếp nhận huân tu, thì mới có thể thành tựu… Mọi người nếu muốn thành tựu, nhất định phải Thỉnh Phật trụ thế, nay Phật đã diệt độ, nhưng còn đệ tử của Phật, bất luận là xuất gia hoặc là tại gia cư sĩ, chỉ cần họ có tu, có học, có đức hạnh, có thể làm cái gương tốt cho chúng ta, có thể hướng dẫn cho chúng ta tu học, thì phải lễ thỉnh họ đến địa phương này thường trú, hoằng pháp lợi sanh, khiến cho địa phương này được họ chỉ dạy trường kỳ tu tập, như vậy mới có thể thật sự thành tựu. Cho nên muốn được thành tựu, thì nhất định phải thật sự phát tâm Thỉnh Phật trụ thế.

Tám. Thường tùy Phật học, Phật còn tại thế thì nương theo Phật tu học, Phật là tấm gương tốt nhất của chúng ta, là mô phạm của chúng ta, nay Phật không còn tại thế, nhưng kinh điển của Phật vẫn còn ở thế gian, chúng ta nương theo kinh điển mà tu hành, cũng là Thường tùy Phật học, đây là tiêu chuẩn tu học Phật pháp cao nhất.

Chín. Hằng thuận chúng sanh, đây là phải đối với pháp giới tất cả hữu tình chúng sanh, nhất định phải Thuận, Thuận là vô cùng khó làm, không dễ gì làm nổi, cho nên người Trung quốc nói Hiếu, tiếp theo là Thuận, tức là Hiếu Thuận, nếu không Thuận thì không có Hiếu, học Phật là hết lòng Đại Hiếu. Hằng thuận chúng sanh phải quán sát cơ duyên, khuyên nhủ chỉ dạy cho chúng sanh đoạn ác tu thiện, giúp cho họ phá mê khai ngộ, thì nhất định phải biết thời tiết nhân duyên, đến lúc nào thì ta phải làm, mới hợp với thời tiết nhân duyên, thì thu hoạch được hiệu quả viên mãn, cho nên phải có trí huệ, thiện xão phương tiện, mới có thể Hằng thuận chúng sanh.

Mười. Phổ giai hồi hướng, tức là đem tất cả công đức học tập tu hành của chúng ta, toàn bộ hồi hướng cho pháp giới tất cả chúng sanh, hồi hướng cho họ chứng bồ đề, hồi hướng cho họ thành Phật đạo, mở rộng tâm lượng của mình, cùng với tận hư không biến pháp giới thành một thể, đạt đến cảnh giới này mới là chân chánh cứu cánh đại viên mãn.

Nói tóm lại, chúng ta y cứ kinh điển tu học Tịnh Tông, tức là y theo Tịnh Độ Ngũ Kinh Nhất Luận, trong kinh luận chỉ dạy phương pháp tu hành, có năm điều khoa mục: Tam Phước, Lục Hòa Kính, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát. Phương pháp vô cùng đơn giản, vô cùng dễ hiểu, một tí cũng không phức tạp. Chúng ta một đời tuân theo cái nguyên tắc này mà tu học, thì nhất định được thành tựu, như cổ đức có nói: vạn tu vạn người đi. Chúng ta đã có y cứ của kinh luận, đã có lý luận phương pháp tu hành, nhưng trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta dùng tâm thái gì, dùng thái độ gì, để đối người, đối sự, đối vật? Chúng ta cứ tuân theo năm điều khoa mục này, thì tuyệt đối không bao giờ sai, sau đó nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ, tất cả mọi người đều được thành tựu viên mãn.

Lược trích trong Nhận Thức Phật Giáo do Pháp Sư Tịnh Không giảng tại Miami Mỹ Quốc năm 1991

Thuyết Nói Về Tu Phúc Và Tu Tuệ

Thuyết Nói Về Tu Phúc Và Tu TuệNgười đời cần phải tu Phúc và Tuệ. Tùy theo phương tiện mà làm việc giúp ích cho người, tránh xa tất cả việc ác, gọi là tu Phúc vậy.

Biết nhân-quả, biết tội-phúc, xem kinh Phật trông rõ lý tính, xem sách Nho ngoài hiểu đạo thế, gọi là tu Tuệ vậy.

Tu Phúc được giàu sang, tu Tuệ được thông minh. Tu Tuệ không tu Phúc thì thông minh mà nghèo khổ, tu Phúc không tu Tuệ đời sau được giàu sang mà ngu si, Phúc Tuệ nếu gồm tu, vừa được giàu sang vừa được thông minh. Cả hai đều không tu, đã ngu si mà lại nghèo khổ ! Phật sở dĩ Phúc Tuệ gồm tu, cho nên mới nói Ngài là bậc Lưỡng-Túc-Tôn, nghĩa là Phúc và Tuệ đều đầy đủ vậy.

Xưa có hai người cùng tu hành, một người chuyên tu Phúc, một người chuyên tu Tuệ. Qua kiếp sau người chuyên tu Phúc nhờ hưởng Phúc nhưng tạo ác, phải đọa làm loài voi, do có Phúc đời trước, quân nhân cỡi đi đánh giặc, có công thắng trận vị Quốc Vương ban cho chuỗi Anh lạc.

Còn người chuyên tu Tuệ, sau chứng được quả A La Hán, nhưng vì kiếp trước không tu Phúc, nên nay làm vị Tăng đi khất thực, nhiều chỗ không cho cơm ăn. Cho nên Phật nói bài kệ như sau:

Tu Phúc không tu Tuệ
Làm voi đeo Anh lạc
Tu Tuệ không tu Phúc
Chứng quả mà đói dạc.

Thế nên cả hai Phúc và Tuệ cần phải kiêm tu vậy. Nhưng bất đắc dĩ thà rằng: Tu Tuệ hơn tu Phúc, chứ đừng cho rằng tu Phúc hơn tu Tuệ – Tại sao ? Vì nếu Tuệ hơn Phúc thì còn biết Tội Phúc mà giữ gìn cho khỏi sa đọa; còn như Phúc hơn Tuệ thì được hưởng Phúc mà tạo ác, nên dễ bị sa đọa ! Vì thế kinh Lăng Già chép: Hưởng chút vui đời hiện tại mà trồng quả khổ đời vị lai là vậy.

Phật nói bài kệ rằng:

Gồm tu Phúc cùng Tuệ
Lại niệm Phật A Di Đà
Trong hoa sen Chín Phẩm
Phẩm nhất lại nhường ta.

Người trai giới tỏ ngộ, chuyên tu Tịnh Độ, sẽ sinh lên Phẩm Thượng của Chín Phẩm đài sen.

Phật lại nói bài kệ rằng:

Tuy tu Phúc cùng Tuệ
Không biết niệm Di Đà
Chưa được La Hán quả
Luân hồi khó thoát ra.

Song người ở trong thế gian này, tu hành được quả A La Hán mới khỏi luân hồi sanh tử.

(Trích trong sách Long Thư Tịnh-độ, Tiến sĩ Vương Nhật Hưu).

Ghi chú: Trong Phật giáo có câu Phước Huệ song tu là nghĩa này (Phúc có nghĩa là Phước, Huệ có nghĩa là Tuệ). Người ở thế gian này, còn một cách khác để thoát khỏi luân hồi sanh tử, đó là tu theo pháp môn niệm-PHẬT. Niệm PHẬT ở đây là niệm cho chính đức PHẬT ở trong mỗi người chúng ta được giác ngộ để thành PHẬT. Chứ không phải niệm cho chư PHẬT. Theo nguyên lý thì niệm gì thì thành đó: Niệm ma thành ma, niệm người thành người, niệm PHẬT thành PHẬT. Trong thời đại ngày nay, thời kỳ mạt-pháp, tu hành để chứng quả A-la-hán để ra khỏi vòng luân hồi sanh tử chỉ là chuyện trong mơ. Duy chỉ có pháp môn Niệm-Phật để thoát ly sanh tử là pháp môn thích hợp duy nhất.

Những Điềm Báo Trước Khi Chết

Những Điềm Báo Trước Khi ChếtNhững người tu hành đã đắc đạo, họ an lạc, tự tại, thong dong giữa hai bờ sống chết, họ có thể tái sinh về bất cứ cõi giới nào họ muốn. Còn chúng sanh mê muội, phàm phu tục tử đều phải tùy nghiệp mà thọ sanh, tức là sau khi chết, phải chịu sự dẫn dắt của nghiệp lực mà thọ sanh về cảnh giới thích ứng cho nghiệp mà mình đã gây tạo. Nói vậy không có nghĩa là Phật tử tin vào thuyết định mệnh, tức là cái đã sắp đặt sẵn mọi chuyện, mình phải đi theo cái có sẳn ấy. Ở đây, không phải vậy, người Phật tử tin rằng mình là chủ nhân ông của chính mình, tuy nhiên, một khi mình không làm chủ được mình để cho ác nghiệp đã được xảy ra, thì chính cái nghiệp ấy sẽ trở lại điều khiển mình. Do đó người Phật tử hãy thận trọng trong mọi hành vi, lời nói và ý nghĩ của mình, từ nơi đó sẽ đưa chúng ta tới an lạc, và cũng từ nơi đó sẽ đưa chúng ta đến khổ đau.

Trước khi một người chết, có những điềm báo trước, có thể tùy theo mỗi người mà có cảm thọ khác nhau về cảnh giới thiện hay cảnh giới ác, và những điềm này sẽ giúp cho ta dự đoán được nơi thọ sanh của người quá cố.

Những điềm lành báo trước sẽ có thể sinh về Tịnh độ:

Tâm hồn không bị bối rối
Biết trước ngày giờ chết
Tâm niệm chân chánh không mất
Biết trước giờ chết mà tắm rửa và thay quần áo.
Tự mình niệm Phật, niệm có tiếng hoặc niệm thầm
Ngồi ngay thẳng, chấp tay niệm Phật mà chết
Mùi thơm lạ lan tỏa khắp nhà
Có hào quang sáng soi vào thân thể
Nhạc trời vang dội giữa hư không
Tự nói ra bài kệ để khuyên dạy người ở lại.

Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh lên cõi trời:

Móng lòng thương mến
Phát khởi thiện tâm
Lòng thường vui vẻ
Chánh niệm được rõ ràng
Thân thể không bị hôi hám
Sống mũi không xiên xẹo
Tâm không giận dữ
Tâm không luyến ái tài sản, vợ, chồng, con, dòng họ
Mắt luôn trong sáng
Ngửa mặt lên trời và mỉm cười

Những điềm báo trước sẽ có thể tái sinh trở lại cõi người:

Đến khi chết vẫn nhớ nghĩ đến điều lành
Thân không đau khổ
Ít nói lời phô trương, thường nghĩ nhớ đến cha mẹ
Tai thường muốn nghe tên họ của anh chị em và bầu bạn
Đối với việc lành dữ nhận rõ không lầm loạn
Tâm tánh ngay thẳng không ưa sự dua nịnh
Biết rõ bà con bạn bè giúp đỡ cho mình
Thấy bà con trông nom sinh lòng vui mừng
Dặn dò mọi việc trong nhà trước khi chết
Sanh lòng chánh tín, thỉnh Phật, Pháp, Tăng đến đối diện quy y.

Những điềm xấu báo trước sẽ có thể đọa vào địa ngục:

Gặp phải tình trạng con cái và bà con đều nhìn kẻ sắp chết bằng đôi mắt ghét bỏ
Người sắp chết thường đưa hai tay lên mà rờ mó hư không
Dù bạn lành có khuyên bảo điều hay cũng không tùy thuận
Người sắp chết kêu gào than khóc
Đi ra đại tiện, tiểu tiện mà không hay biết
Nhắm nghiền đôi mắt
Thường hay che úp mặt mày
Nằm nghiêng mà ăn uống
Mình mẩy miệng mồm đều hôi hám
Gót chân, đầu gối luôn run rẩy
Sống mũi xiên xẹo
Mắt bên trái hay động đậy
Hai mắt đỏ ngầu
Úp mặt mà nằm
Thân hình co rút và tay bên trái chấm xuống đất

Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh vào cõi giới ngạ quỷ:

Ưa liếm môi miệng
Thân nóng như lửa
Thường lo đói khát và hay nói đến việc ăn uống
Mắt thường hay trương lên mà không nhắm
Hai mắt khô khan như mắt chim gỗ.
Đầu gối bên phải lạnh trước
Tay bên phải thường nắm lại

Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh vào loài súc sanh:

Yêu mến vợ con, đắm đuối không bỏ
Ngón tay và ngón chân đều co quắp
Khắp trong thân mình đều toát ra mồ hôi
Tiếng nói ra khò khè
Miệng thường ngậm đồ ăn

Trích trong sách của một Lạt-Ma Tây-Tạng

Niệm Phật Chớ Sợ Cười Đừng Chờ Hẹn

Niệm Phật Chớ Sợ Cười Đừng Chờ HẹnCó nhiều vị muốn tu học Phật pháp, nhưng lại sợ bị người chê cười là tiêu cực, hủ bại, mê tín. Do đó khi xem kinh thì lén lút không dám công nhiên cho người thấy; hoặc có ăn chay niệm Phật cũng không dám cho ai hay. Nên biết đạo Phật chẳng những là một tôn giáo, lại là một môn triết học rất cao thâm, các học giả uyên bác đông tây đã có nhiều vị nghiên cứu và thực hành. Phật đạo là con đường sáng suốt đưa người từ hung ác đến thiện lương, từ hàng phàm phu mê mờ đến địa vị thánh nhơn toàn giác. Cho nên người đã có duyên may tu học Phật pháp, nên mừng cho mình được phước lành, và tùy nghi đem ra khuyên nhắc kẻ khác làm theo, chớ không chi phải e ngại. Những kẻ chê tu Phật là tiêu cực, hủ bại, mê tín, chỉ vì họ chưa hiểu biết mà thôi.

Lại trong giới tu học Phật pháp, có những người vừa mới xem qua các kinh điển cao, đã vội tự phụ cho mình là bậc Đại Thừa (1) hành giả, thấy ai ăn chay niệm Phật liền xem là hạng căn cơ thấp kém, chỉ bắt chước theo các ông già bà cả ngu dốt tối tăm, Nên biết môn Tịnh Độ là pháp Đại Thừa viên đốn. Nói “Đại Thừa”, vì pháp này lấy niệm Phật làm nhân, lấy địa vị Toàn Giác làm quả. Nói “viên” vì môn này nhiếp tròn cả năm tông tám giáo, như các bậc cổ đức đã luận phê. Nói “đốn” vì phương tiện này đưa từ hàng cụ phược phàm phu lên ngôi bất thối chuyển, từ bậc sơ học lên quả Vô thượng Bồ Đề, rất thẳng tắt mau lẹ. Cho nên pháp môn này sáu phương chư Phật đều khen ngợi, các vị Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đều phát nguyện vãng sanh. Xem thường và khinh chê niệm Phật, chẳng những là không hiểu sâu về Tịnh Độ, mà còn mang lỗi khinh chê chư Phật và các bậc Thánh giả đã nói trên. Cho nên niệm Phật là chính mình đã thật hành theo pháp môn viên đốn Đại Thừa, không nên ngại đến sự cười chê của người chưa hiểu biết.

Muốn cầu giải thoát, đối với sự niệm Phật phải xem là điều rất khẩn yếu, biết được lúc nào là phải thật hành ngay khi ấy, không nên chờ hẹn. Phật đã từng dạy, mạng sống của con người chỉ ngắn ngủi trong hởi thở; vì hơi thở có ra mà không vào, tức đã bước sang kiếp khác. Thế thì năm tháng ngày giờ, cho đến mỗi giây phút, đều có cái chết không chờ hẹn ta ở trong đó; chẳng ai dám quyết đoán mạng sống của mình dài được bao lâu. Cổ thi có câu:

Ngày trước đầu đường còn ruỗi ngựa.
Hôm nay trong quách đã nằm yên!

Hoặc câu:

Chớ hẹn đến già rồi niệm Phật.
Đồng hoang mồ trẻ thấy đông người.

Đây là những điều xác thật. Cho nên muốn phòng ngừa cơn vô thường chợt đến, mỗi thời khắc chúng ta phải gắng chăm niệm Phật. Như thế, gặp giây phút cuối cùng mới không bị bối rối tay chân.

Trên đường tu, để ngăn trách về sự giải đãi, đức Phật đã răn dạy: “Thầy Tỳ Khưu thường hay có tám cách biếng trễ. Chẳng hạn, bữa nào đi khất thực đói, liền nghĩ rằng: “Hôm nay, khất thực đói, trong người tất thiếu sức khỏe, để huởn tu một đêm.” Bữa nào khất thực no, liền nghĩ: “Hôm nay ăn no, trong người nặng nề mệt nhọc, thôi tạm xả tu, mai sẽ tiếp tục.” Như thế cho đến những khi: sắp làm việc nhiều – lúc làm việc nặng vừa xong – sắp muốn đau – khi đau bịnh vừa mạnh – sắp đi xa – lúc đi xa mới về; trong các trường hợp ấy, lúc nào cũng nại cớ này, cớ khác, rồi bỏ tu để ngủ nghỉ. Trái lại, những vị Tỳ Khưu tinh tấn, trong tám trường hợp đó, luôn luôn nghĩ đến sự vô thường, hằng siêng năng tu tập.”

Tâm niệm giải đãi của người xuất gia đã như thế, tất tâm lý biếng trễ của hàng tại gia chắc có lẽ nhiều hơn. Hoằng Nhứt đại sư từng khuyên một người thân hữu niệm Phật. Ông này viết thư gởi đến, than mình mắc bận nhiều công việc, xin để tạm xếp đặt cho ổn thỏa rồi sẽ hay. Đại sư liền biên vào bức thư đó hai câu thi, rồi gởi trả nguyên lại. Hai câu ấy như sau:

Ngay giờ quyết dứt, liền thôi dứt.
Chờ hẹn cho xong, chẳng lúc xong!

Thật thế, chuyện đời đến khi nhắm mắt cũng không rồi công việc.

Khi xưa, có vị tăng khuyên người bạn là Trương Tổ Lưu niệm Phật. Ông bạn bảo: “Tôi có ba việc làm chưa xong: Một là quan tài ông thân còn để ở nhà mồ chưa chôn, hai là đứa con trai chưa cưới vợ, ba là đứa con gái chưa gả chồng. Chờ ba việc đã xong, tôi sẽ vâng lời.” Mấy tháng sau, ông bạn bị bạo bịnh chết. Vị tăng đến tụng kinh cầu siêu, và điếu một bài thi rằng:

Bạn tôi tên là Trương Tổ Lưu
Khuyên ông niệm Phật, hẹn ba điều.
Ba điều chưa vẹn, vô thường bắt
Đáng trách Diêm Vương chẳng nể nhau!

Trong bài thi, ý vị tăng nói: ông hẹn khi xong ba việc sẽ niệm Phật, nhưng ngặt nỗi vô thường bất ngờ đến, nó có chờ hẹn ông đâu? Xem đấy chúng ta ai dám bảo đảm rằng mình chẳng là ông Trương Tổ Lưu thứ hai? Cho nên người quyết chí tu hành, được hở giây phút nào liền niệm Phật ngay lúc ấy, đừng nên đạp nhầm dấu xe đổ của người xưa mà để hận ngàn thu.

Giải thích nghĩa từ:

(1) Dịch âm Hán Việt là Ma-ha-diễn-na, Ma-ha-diễn, tức là “cỗ xe lớn”; Một trong hai trường phái lớn của đạo Phật, phái kia là Tiểu thừa hay được gọi là “cỗ xe nhỏ”. Xuất hiện trong thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên, phái này tự nhận là cỗ xe lớn, nhờ dựa trên tính đa dạng của giáo pháp để mở đường cho một số lớn chúng sinh có thể giác ngộ.

Cả hai, Tiểu thừa và Ðại thừa đều bắt nguồn từ Ðức Phật Thích-ca Mâu-ni, nhưng khác nhau nơi sự quan tâm về thực hành giáo pháp. Nếu Tiểu thừa quan tâm đến sự giác ngộ của chính mình thì đại biểu của Ðại thừa mong muốn được giải thoát để cứu độ chúng sinh. Hình tượng tiêu biểu của Ðại thừa là Bồ-Tát (Bodhisattva) mà đặc tính vượt trội là lòng Bi (Lòng thương yêu, đau xót, thông cảm cùng với chúng sinh).

Ngược lại với quan điểm nguyên thủy, Ðại thừa không quá nhấn mạnh đến đời sống xuất gia, cho rằng cư sĩ tại gia cũng có thể đạt Niết Bàn (Đây là một khái niệm nằm ngoài ngôn ngữ và lýluận. Có thể hiểu giống như lửa phát sinh từ hư không và trở về với hư không, thì Niết-bàn là một tình trạng của tâm thức trở về với một cõi xứ không chịu sự sinh diệt, là dạng tồn tại của tâm thức không có mọi sự khổ đau của vòng sanh tử luân hồi) với sự tế độ của chư Phật và chư Bồ Tát. Trong quan điểm Ðại thừa, Niết-bàn không phải chỉ là giải thoát khỏi Luân hồi – mà hơn thế nữa, hành giả giác ngộ về Chân tâm và an trụ trong đó. Mỗi chúng sinh đều mang Phật tính và nhận ra điều đó là điều tuyệt đối quan trọng.

Giáo lí căn bản của Ðại thừa được chứa đựng trong những bộ Kinh (Sutra) và Luận (Sastra) với nhiều luận văn hết sức sâu sắc. Hành giả tu theo pháp môn niệm Phật là hành giả Đại thừa.

Trong Đại thừa lòng Từ (Từ được xem là lòng thương yêu chúng sinh nhưng không có tính chất luyến ái) và bi được xem là đức hạnh chính yếu, trong lúc Tiểu thừa xem Trí huệ quan trọng hơn trong bước đường giác ngộ. Trong Tịnh độ tông (pháp môn niệm-PHẬT) thì lòng từ bi của Phật A-Di-Đà (Amitabha Buddha) được xem là cao cả nhất.

Hòa thượng Thích Thiền Tâm

Khi Niệm Phật Thấy Hình Tượng Phật Có Lỗi Không?

Khi Niệm Phật Thấy Hình Tượng Phật Có Lỗi KhôngHỏi: Kính thưa thầy, vào giờ con niệm Phật công cứ, trong tư tưởng con thường hay mong muốn thấy hình tượng Phật Di Đà và hình tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin hỏi: sự mong muốn đó có lỗi gì không?

Đáp: Xin thưa ngay trong lúc liên hữu đang niệm Phật mà vọng cầu như thế thì thật là có lỗi. Lỗi nầy liên hữu cần nên tránh. Liên hữu nên nhớ, Phật Tổ dạy chúng ta niệm Phật với thâm ý là để cho chúng ta diệt trừ phiền não, cho tâm ta được an định. Niệm Phật mà tâm không an định, đó là chúng ta đã niệm Phật sai rồi. Lẽ ra khi niệm Phật công cứ hay không công cứ cũng phải như thế. Ngược lại, đằng nầy liên hữu không niệm như thế mà còn niệm Phật với tâm vọng động mong cầu cho được thấy hình tượng Phật và Bồ tát, thì quả đó là một sai lầm rất lớn. Vì sao? Vì có mong cầu là có vọng tưởng. Niệm Phật mà còn có vọng tưởng như thế, thì làm sao tương ưng với pháp môn niệm Phật. Và như thế, thì đã trái với yếu lý niệm Phật mà Phật Tổ đã chỉ dạy rồi.

Tôi xin nhắc lại để cho liên hữu chú ý là: “niệm Phật mục đích chính là để dứt trừ phiền não”. Phiền não có giảm thiểu, thì tâm ta mới được an lạc. Tâm có an lạc, thì mới có được lợi ích hiện đời và tương lai mới có hy vọng vãng sanh. Bởi tâm có an lạc thì mới tương ưng với cảnh giới Cực lạc mà chúng ta đang quy hướng.

Nhưng ở đây thì trái lại, liên hữu niệm Phật mà còn có khởi vọng tâm mong cầu để thấy Phật và Bồ tát, thì đó là điều trái với sự niệm Phật. Khi niệm Phật, hành giả chỉ nhiếp tâm vào câu hiệu Phật không nên vọng nghĩ điều gì. Chư Tổ thường dạy là : “tâm và tiếng phải hiệp khắn nhau và phải niệm cho rành rõ”.

Niệm Phật tuy có nhiều cách, nhưng cách tốt nhứt vẫn là trì danh niệm Phật. Nhưng dù niệm Phật cách nào đi chăng nữa, điều tối kỵ là có vọng tâm mong cầu. Bất cứ mong cầu điều gì cũng là bệnh cả. Đó là bệnh vọng tưởng phiền não. Tối kỵ nhứt là vọng cầu thấy hình tượng Phật bên ngoài. Có vọng cầu dù là vọng cầu thấy Phật, đó cũng là phiền não vọng tưởng mà thôi. Đã có phiền não thì đã trái với Sự và Lý niệm Phật rồi. Liên hữu nên nhớ, tất cả đều từ tâm mà ra.

Nếu khi liên hữu mong muốn thấy Phật, thì chính cái mong muốn đó là vọng tưởng. Còn có vọng tưởng là còn sanh diệt, tức nhiên còn có vui buồn vừa ý hoặc không vừa ý. Vừa ý thì vui, không vừa ý thì buồn. Đó là ma vui ma buồn dẫn dắt liên hữu. Như vậy là niệm trên sự buồn vui chớ đâu phải niệm Phật. Điều nầy rất quan trọng mà tất cả liên hữu chúng ta cần phải lưu ý.

Có người khi họ niệm Phật, thay vì tập trung tâm ý vào câu Phật hiệu, cho tâm được thuần nhứt an định, họ lại mơ ước thấy Phật tượng bên ngoài. Khi thấy Phật tượng bên ngoài hiện ra, thì họ rất vui mừng, cho đó là kết quả của sự niệm Phật. Từ đó, mỗi khi niệm Phật, họ đều khởi ý mong cầu cho thấy Phật như thế. Liên hữu nên nhớ, tất cả cảnh đều từ tâm. Dù cảnh tốt hay cảnh xấu cũng đều từ tâm vọng mà ra. Phật Tổ dạy ta niệm Phật là để cho tâm ta được an định. Có an định mới có trí huệ. Có định huệ thời không có phiền não. Không phiền não, thì mới được nhứt tâm. Đó là chủ yếu mà trong Kinh tiểu bổn Di Đà, đức Phật Thích ca đã dạy chúng ta như thế. Niệm Phật để được đi dần đến chỗ « Nhứt tâm bất loạn », niệm Phật như thế mới hợp với ý Phật Tổ dạy.

Còn có tâm vọng cầu là còn chạy theo cảnh duyên bên ngoài. Còn theo cảnh duyên bên ngoài đó là cửa ngỏ dễ bị ma dẫn dắt. Giả như có thấy Phật thiệt ứng thân đi nữa, cũng chưa phải là thấy Phật, đừng nói chi thấy Phật qua hình tượng.

Trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Phật đã từng dạy:

Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.

Nghĩa là:

Nếu ai cho rằng thấy sắc tướng của Phật mà cho là thấy Phật hay nghe âm thanh của Phật thuyết giảng mà khởi tâm tìm cầu Phật. Phật nói: « kẻ đó đang thật hành đạo tà, không bao giờ thấy được Như Lai ». Tại sao thế? Cũng trong Kinh nầy, ở một đoạn khác Phật nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Nghĩa là: phàm cái gì có hình tướng đều là hư dối, nếu thấy các tướng, chẳng phải tướng thật, chính đó mới thấy được Như Lai. Như lai là bất sanh bất diệt, còn các tướng đều sanh diệt hư dối không thật. Đã là hư dối, thì tại sao ta lại mong cầu? Phật tử nên nhớ, Phật dạy, ngoài tâm mà cầu Phật đó là ngoại đạo.

Như vậy, người muốn thấy Phật phải thấy bằng cách nào? “Phải thấy không chỗ để thấy, tức là phải ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Còn có tâm dính mắc vào bất cứ cảnh nào, cũng đều là tà ngoại cả, chớ không phải thấy Phật thiệt. Phật thiệt phải chính ở nơi bản tâm mình. Khi nào tâm mình lặng hết vọng tưởng, thì ngay đó Phật thiệt của mình mới hiện ra, khỏi cần tìm kiếm ở đâu xa. Còn có khởi tâm tìm kiếm là đã sai rồi. Nói rõ hơn là đã mất ông Phật thiệt của mình rồi. Vì ông Phật ứng thân giáng sanh ở Ấn Độ sống được 80 năm rồi nhập diệt, ông Phật đó cũng là ông Phật giả mà thôi. Vì ông Phật đó có sanh có diệt.

Bây giờ, người ta đi qua Ấn Độ đâu có ai còn thấy ông Phật Thích Ca đó nữa. Ông Phật có sắc thân với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp mà còn không có thiệt, hà tất gì ông Phật do người ta tạo ra bằng cốt sắt xi măng hay bằng gỗ giấy mà có thiệt hay sao?

Tu hành mà dụng tâm sai, thì đó là đầu mối của ma vương dẫn dắt. Nếu hành giả không khéo thì sẽ nguy hiểm vô cùng. Chúng ta nên nhớ rằng, bọn ma nó có ngũ thần thông, nó muốn hiện ra thứ gì cũng được. Tùy theo ý muốn của mình, ham thích thứ gì thì nó sẽ hiện ra thứ ấy.

Thuở xưa, chính Tổ Ưu Ba Cúc Đa là vị Tổ sư thứ tư bên Ấn Độ còn phải bị lầm lẫn khi nó hiện ra hình ảnh đức Phật và các vị Thánh chúng. Là Tổ mà còn lầm ma tưởng là Phật, như thế, còn đối với phàm phu chay như chúng ta thì sao? Bản thân mình đã là ma rồi mà không chịu lo tìm cách để tiêu trừ, mà lại còn vọng cầu thấy nầy thấy nọ, đó là ma lại chồng chất thêm ma nữa.

Tệ hại hơn nữa, có người lại còn đi khoe khoang với mọi người cho rằng mình niệm Phật đã thấy Phật. Hỏi thấy Phật như thế nào? thì họ trả lời là thấy qua Phật tượng giấy. Nếu thấy Phật tượng giấy thì có gì khó khăn đâu. Chúng ta cứ mở to đôi mắt ra là nhìn thấy rồi. Đâu cần đợi đến khi niệm Phật mới thấy hình tượng đó. Như vậy, rõ ràng là họ thấy bằng vọng tưởng của họ. Vậy mà cũng đi khoe với mọi người. Người không hiểu biết, nghe nói tưởng là người đó tu hành công phu khá, vì nhờ tu khá nên mới thấy Phật.

Ngược lại, đối với những người có chút ít kinh nghiệm trong sự tu hành hay họ học hỏi nghiên cứu kỹ kinh điển Phật dạy, nghe nói thế, thì họ lại đâm ra lo sợ và thật đáng thương xót cho người đó. Vì họ biết người đó đã sai lầm rồi. Nhưng vì người đó đã mang nặng mặc cảm định kiến, thì dù cho họ có thật tâm khuyên bảo, nhưng đâu dễ gì mà người đó chịu bỏ.

Thuở xưa, sơ tổ Liên Tông là Huệ Viễn đại sư khi nhập định, ở trong định, Ngài thấy Thánh cảnh Tây phương hiện ra 3 lần. Nhưng Ngài tuyệt nhiên không dám hở môi. Vì sợ người ta hiểu lầm chạy theo cái giả tướng mà mong cầu, thì đó là tai hại vô cùng. Cho nên Tổ yên lặng không bao giờ tiết lộ cho ai biết. Mãi cho đến khi sắp viên tịch, bấy giờ, Tổ mới nói cho các vị đệ tử biết.

Chúng ta nên nhớ, Ngài thấy Thánh cảnh trong lúc nhập định, bởi do nhập định tâm của Ngài thanh tịnh, an định nên nó mới tương ưng với cảnh Cực lạc. Do đó, nên cảnh cực lạc mới hiện ra, chớ không phải do Ngài vọng tâm mong cầu mà thấy. Đó là điều mà ta nên cẩn thận lưu ý.

Ngược lại, chúng ta chưa được như thế, mà khởi tâm mong cầu thì dễ bị ma nó dẫn dắt. Và cái thấy của ta là do vọng tưởng nó lòa hiện ra thôi, chớ không phải là thiệt. Nếu không khéo buông bỏ cứ mãi đắm mê chạy theo cái giả cảnh đó, thì có ngày chúng ta sẽ bị bệnh loạn trí. Đến khi bị ma nó dẫn dắt đi vào con đường mê loạn rồi, thì chừng đó chúng ta có hối hận ăn năn thì cũng đã muộn màng lắm rồi! Chi bằng chúng ta nên tránh nhân thì không có quả. Một khi đã vướng bệnh nặng rồi, thì hết phương cứu chữa. Đó là điều rất tai hại nguy hiểm mà chúng tôi xin thành thật khuyên hành giả nên dè dặt cẩn trọng.

Tóm lại, liên hữu niệm Phật cứ nắm chắc sáu chữ Di Đà mà chuyên niệm, đừng khởi tâm vọng cầu muốn thấy thứ gì cả. Khi nào tâm của liên hữu được an định thanh tịnh rồi, thì chừng đó lo gì liên hữu không thấy Phật. Bởi vì khi đó tâm của liên hữu cùng tâm Phật tương ưng với nhau, nghĩa là nó có cùng một tần số, thì chắc chắn sẽ cảm ứng gặp nhau thôi. Kính mong liên hữu nên chú tâm cẩn trọng vấn đề nầy. Kính chúc liên hữu thành công trong việc niệm Phật cầu vãng sanh.

TK Thích Phước Thái

Tham Quan Địa Ngục (Một Câu Chuyện Có Thật) [Video]

Tham Quan Địa Ngục (Một Câu Chuyện Có Thật)Tôi đã được xem qua những đĩa của Sa Di Ni Diệu Hân! Sa Di Ni Diệu Hân kể lại cô là người đã tu hành trong nhiều kiếp nên kiếp này cô được các vị Quỷ Vương theo bảo vệ và giúp đỡ cho Cô (Trong đó có vị Bồ Tát Tiêu Diện Đại Sĩ), lúc cô chưa xuất gia còn ở trần tục thì cô cũng là một người phụ nữ lam lủ, cũng có chồng con và mưu sinh bằng đủ thứ nghề, trong đó có cả nghề bán vé số dạo! Nhưng nhờ tiền căn đã tu hành từ nhiều kiếp nên cô đã được các vị Quỷ Vương lúc nào cũng ở bên cạnh và dìu dắt cho cô, cô đã được khai nhãn quang nên cô luôn nhìn thấy được các vong linh đói khát vất vưởng.

Cô kể trong một lần đi bán vé số vì lúc đó đang đói mà chưa có gì ăn, sau đó cô thấy một người đem những đồ ăn ra vỉa hè đường để cúng kiến gì đó? Khi người này cúng xong cô liền đi tới và định lấy đồ cúng để ăn thì liền sau đó cô nghe nhiều giọng nói sau lưng (Cô ơi những đồ cúng đó người ta cúng cho chúng con mà!!!), cô liền quay lại thì thấy các vong hồn vất vưởng. Cô liền trả lời tôi xin nhường lại cho quý vị, liền sau đó cô nghe các vong hồn trả lời (Cô ơi chúng con không dám ăn trước cô, vì cô là người đã có tu hành từ nhiều kiếp nên chúng con không thể ăn trước cô được! Cô thương chúng con thì cô cứ ăn phân nửa còn phân nửa thì nhường lại cho chúng con, cô cũng nghe lời các vong hồn cô ăn phân nửa và nhường lại phần còn lại cho họ!).

Sau này nếu chỗ nào có cúng kiếng các vong hồn liền đi tìm cô và họ chờ cho cô ăn trước còn lại bao nhiêu thì họ dùng (Các vong hồn cũng thỉnh nguyện đến cô, sau này cô có xuất gia thì nhớ siêu độ cho các con!)

Rồi sau đó cô xuất gia tu hành, vào một đêm cô đang ngủ thì thấy linh quang của Phật sáng rỡ trong linh quang cô thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau khi nhìn thấy ánh linh quang đó thì qua ngày hôm sau mắt mờ dần không còn thấy rõ nữa (Cô liền thắc mắc không lẽ cô nhìn thấy linh quang của Phật xong thì phải bị mắt mờ như thế hay sao??? ), cô liền mon men ra tiệm thuốc tây và mua vài viên thuốc ngủ về uống (Vì cô nghĩ chắc do mình mệt mỏi nên con mắt mới bị như thế, uống thuốc ngủ vào ngủ một giấc là sẽ khác thôi!).

Sau khi cô uống thuốc ngủ xong, cô thấy mình xuất hồn và được các vị Quỷ Vương dẫn cô xuống Địa Ngục, trong Địa Ngục cô đã được thấy 3 vị Bồ Tát đó là Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát nhiều tay nhiều mắt (Cô nghĩ đó là Bồ Tát Chuẩn Đề), sau đó cô được các vị Bồ Tát tham vấn về những tội lỗi của cô ở trên dương thế đã làm??? Bồ Tát Quán Thế Âm nói con phải kể hết những tội lỗi của con ra, thì sau đó con mới vào được các tầng Địa Ngục khác để tham quan và sau này về dương thế mà khuyên bảo chúng sanh đừng tạo nghiệp ác!

Sau khi cô khai tội lỗi của mình xong liền được các vị Quỷ Vương dẫn vào tham quan các ngục, trước khi bắt đầu vào thăm các cửa ngục vị Quỷ Vương đã nói với Sa Di Ni Diệu Hân con vào đây tham quan thì lúc nào con cũng phải niệm Phật và không được khóc! Sau đó các vị Quỷ Vương đã dẫn cô vào thăm các ngục hình, cô được chứng kiến tất cả tội hình ghê sợ nhất mà không thể tưởng tượng được, trong tất cả các cửa ngục tội nhân bị hành hình không thiếu bất cứ đối tượng nào trên trái đất này, từ những kẻ trí thức học cao hiểu rộng cho đến những người bần cùng của xã hội, trong đó thì có vô lượng người tu hành của tất cả đạo giáo trên thế giới, trong đó có vô số các vị Thượng Tọa và Đại Đức cùng các Phật tử của Phật Giáo mà lúc sống không giữ gìn giới hạnh, phỉ báng Tam Bảo, hại người hại vật, những người trụ trì thì lấy những tiền bạc của đàn na tín thí cúng dường đem về lo xây nhà xây cửa cho người thân của mình hưởng!

Sa Di Diệu Hân đã được các vị Quỷ Vương dẫn đến Địa Ngục A Tỳ, trong đây cô đã được gặp lại người cô ruột của mình đang bị hành hình trong đó bị các loại thủy quái cắn xé máu me khắp người, khi Sa Di Ni Diệu Hân được chứng kiến cô ruột của mình bị hành hình cô đã bật khóc nức nở và thỉnh nguyện các vị Quỷ Vương giúp đỡ, các vị Quỷ Vương trả lời chúng ta không thể giúp được (Ngay cả chúng ta đây nếu phạm tội thì cũng bị như thế thôi!).

Người cô ruột của Sa Di Ni Diệu Hân khi còn sống là người buôn ma túy bên CamPuChia rất là giàu có, nhưng cuối cùng vì nghiệp quả gieo những sự độc hại cho chúng sanh, sau một thời gian giàu có bà đã bị phá sản hoàn toàn bị con cái ruồng bỏ, sau đó bị bệnh tật trong đói nghèo mà chết (Chết rồi thì đọa vào ngục A Tỳ như trên đây). Cũng trong ngục A Tỳ này cô đã chứng kiến thêm một ông hàng xóm ở gần nhà cô lúc trước cũng đang bị hành hình trong đây ( Khi còn sống ông này là chủ của một hãng giấy, nhưng khi sống lại sản xuất tiền giả, nên bây giờ phải chịu hình phạt trong đây! Sa Di Ni Diệu Hân lúc trước là bạn thân của con gái ông này!).

Còn về Sa Di Ni Diệu Hân sau khi được đi tham quan các Địa Ngục để sau này về dương thế mà khuyên bảo chúng sanh tu hành xa lìa việc ác! Nhưng bản thân cô cũng không thoát khỏi tội mà mình đã tạo ra (Cô cũng bị các vị Quỷ Vương trừng phạt những tội lỗi của cô đã gây ra trước khi xuất gia, cũng rất thảm thương, sau khi cô trả những quả đó xong thì mới bắt đầu cho trở về dương thế để hoằng dương Phật pháp và khuyến hóa chúng sanh bỏ ác làm lành).

Từ Khánh mong những ai đã từng nghĩ chết là hết thì nên nhìn nhận lại vấn đề này nhé! Chết không phải là hết như các vị nghĩ đâu, hơn 90% con người sống trên trái đất này (Bất kể tôn giáo) sau khi chết thì đọa vào 3 đường ác rồi, chỉ còn một số ít người thì được tái sanh vào những cõi lành mà thôi! Nhưng Từ Khánh cũng rất vui vì chúng ta biết đến pháp môn Tịnh Độ hằng ngày tinh tấn niệm Phật bỏ ác làm lành, phóng sanh, bố thí, yêu thương mọi loài, tất cả công đức đó đem hồi hướng về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà thì chắc chắn các bạn sẽ được vãng sanh và thoát khỏi tam đồ ác đạo (Thời gian không chờ đợi chúng ta đâu, hãy cố gắng tu hành, cửa Địa Ngục lúc nào cũng mở để chào đón cho dù người đó là Tăng hay phàm, nếu bây giờ không tinh tấn niệm Phật và giữ gìn giới hạnh thì sau này khó thoát cửa Địa Ngục)…!

HÃY BỎ ÁC LÀM LÀNH, KẺO NGÀY MAI KHÔNG KỊP
HÃY NIỆM PHẬT TINH TẤN, SỚM VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG!
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI A DI ĐÀ NHƯ LAI