Chân Giá Trị Của Pháp Môn Tịnh Độ

Chân Giá Trị Của Pháp Môn Tịnh ĐộKính thưa quý vị:

Đề tài mà tôi có duyên được trình bày cùng quý vị hôm nay thuộc một lãnh vực rất phổ thông, song cũng rất quan trọng, bởi vì nó liên hệ đến rất nhiều người theo đạo Phật: đó là pháp môn Tịnh độ, một pháp môn mà hầu hết các Phật tử đều quen biết. Pháp môn Tịnh độ là chiếc bè Từ mầu nhiệm, giải thoát chúng sanh khỏi cảnh khổ đau phiền não trong thời mạt pháp.

Thuở xưa, Đức Thế Tôn đã dạy: “Vô lượng Bồ tát ở mười phương thế giới muốn nghe thuyết về pháp môn Tịnh độ mà không được toại nguyện. Giả sử khắp tam thiên đại thiên thế giới bị nạn hoả thiêu, nếu ai cầu được nghe giảng về pháp môn Tịnh độ mà phải băng qua miền lửa cháy ấy thì cũng cố nên vượt qua để được nghe Diệu Pháp này”. Lời Phật đã dạy như vậy, đủ tỏ giá trị siêu việt của pháp môn Tịnh độ, hay pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc quốc đến mức độ nào vậy.

Thời nay, chính là lúc pháp môn Tịnh độ đang cần hơn bao giờ hết cho nhân loại, phần đông đức Tin không vững, lại thêm căn cơ thiển bạc cho nên, muốn đạt tới chính quả thì phi con đường Tu Tịnh Nghiệp, e khó tìm lối đi khác để giải thoát tâm linh dễ hơn và có hiệu quả hơn. Trên đường tu, người quyết tâm tu hành thường gặp nhiều chướng ngại ; trong nội tâm, phiền não đua nhau quấy phá, làm cho lục dục thất tình đốt cháy tâm can ; ở ngoại trần, cảnh vật lại khích động tà tâm, khiến cho tham, sân, si nổi dậy, làm mê mờ chân tính, thần trí hoá hôn ám, tâm thức trở thành thác loạn.

Nội ma, ngoại ma, trong ngoài cấu kết, dệt nên màn lưới vô minh dầy đặc bao phủ Chân Tâm, khiến con người không còn thấy đâu là Chân lý nữa. Để đối phó với các chướng ngại vật đó, người tu cần giữ Tâm bình tĩnh, mà phương pháp an tâm dễ dàng và hiệu nghiệm, trong bất kỳ trường hợp nào, trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, là trì danh hiệu Phật A Di Đà.

Trong 12 tông phái của Đạo Phật, trừ hai tông thuộc Tiểu thừa (là Thành Thực tông và Câu Xá tông) còn 10 tông phái thuộc Đại thừa, thì 9 tông thuộc về Chiết môn dạy cách tiêu trừ nghiệp chướng, phá huỷ vô minh, để trở về với Chân Tâm, bản tính của mình (như Luật tông, Mật tông, Thiền tông, Pháp tướng tông, Thiên Thai tông, Không tông Bát nhã, Tam Luận tông, Niết Bàn tông, Hoa Nghiêm tông), còn lại một tông thuộc về Nhiếp môn, tức là pháp môn tiếp dẫn người niệm Phật A Di Đà vãng sinh Tịnh độ. Tuy nhiên, Tịnh độ tông chẳng những thuộc về Nhiếp môn, mà còn thuộc cả về Chiết môn nữa, tức là kiêm cả cầu được vãng sinh Cực lạc quốc và Kiến tính minh Tâm.

Pháp môn Niệm Phật A Di Đà đã hợp thời cơ, khế lý, lại còn nhiếp đủ cả Thiền, Giáo, Luật và Mật, thật là viên mãn, không có tông phái nào khả dĩ vượt qua nổi.

Mỗi câu “A Di Đà Phật” là tâm yếu của Chư Phật, dọc thì quán suốt năm thời, ngang lại gồm thâu tám giáo, và điểm son của pháp môn Tịnh độ là từ phàm phu nặng nghiệp quả mà tiến thẳng đến ngôi bất thoái, không như các pháp môn khác dù phá được phiền não, nhưng khi lâm chung, tinh thần hôn mê, lại quên mất sở tu, sở chứng, làm cho Tâm thoái chuyển, lại phải đoạ vào bát nạn tam đồ. Do đó pháp môn Tịnh độ được đại đa số Phật tử tu trì.

Thế mà đến nay vẫn còn nhiều điều nghi vấn thì thực cần phải lưu tâm nghiên cứu để làm sáng tỏ những điểm còn chưa rõ mới mong thoát khỏi mê đồ đáng tiếc.

(Theo Minh Đức – Thanh Lương)

Tăng Thượng Duyên Hộ Niệm

Tăng Thượng Duyên Hộ NiệmTăng Thượng Duyên Hộ Niệm, tức là như trong quán thứ mười hai có nói: “Nếu có người trong tất cả mọi thời, ngày đêm chí tâm quán tưởng y báo chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Hoặc thấy hoặc không thấy, Phật Vô Lượng Thọ hóa ra vô lượng hóa thân, hai vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cũng hóa ra vô lượng hóa thân, thường đến nơi của người đó (để hộ trì). Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.

Lại như phần dưới của Quán Kinh nói: “Nếu có người, thường chí tâm niệm Phật và hai vị Bồ tát, thì hai ngài Quán Âm, Thế Chí thường làm thiện tri thức, thường đến bên cạnh hộ trì”, đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.

Lại như quán thứ chín (Chân thân quán) nói: “Ánh sáng bạch hào của thân sắc vàng của đức Phật A Di Đà chiếu khắp chúng sinh ở mười phương, ánh sáng từ lỗ chân lông cũng chiếu khắp chúng sinh mười phương.

Viên quang của ngài cũng chiếu khắp chúng sinh mười phương. Ánh sáng của tám vạn bốn ngàn tướng hảo cũng chiếu khắp chúng sinh mười phương. Giống như phần trước nói về ánh sáng của ngài chiếu khắp mười phương thế giới, thế nhưng chỉ có những chúng sinh nào chuyên tâm tưởng niệm đức A Di Đà Phật, thì ánh sáng của Phật mới thường chiếu đến họ, nhiếp hộ không rời, ở đây không bàn về ánh sáng chiếu soi những chúng sinh tu các tạp hạnh khác. Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.

Lại như Thập Vãng Sinh Kinh nói: “Phật bảo Bồ tát Sơn Hải Tuệ và A Nan: “Nếu có người nào chuyên tâm tưởng niệm Tây phương A Di Đà Phật cầu nguyện vãng sinh, từ ngày hôm nay, ta sẽ phái hai mươi lăm vị Bồ tát đến hộ trì, không cho bọn ác quỷ thần não loạn người đó, làm cho người đó ngày đêm đều được an ổn.” Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.

Lại như A Di Đà Kinh nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, trong bảy ngày bảy đêm, nhẫn đến trọn đời, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu nguyện vãng sinh. Người này thường được hằng hà sa chư Phật ở sáu phương thường đến hộ niệm. Cho nên kinh này được gọi là Hộ Niệm Kinh.

Hộ Niệm Kinh cũng có nghĩa là không cho các quỷ thần ác có cơ hội nhiễu hại, cũng không có các việc tai nạn tử vong bất ngờ xảy đến cho người đó. Tất cả mọi tai ách chướng nạn tự nhiên tiêu trừ. Ngoại trừ những kẻ không chí tâm.” Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.

Lại như phẩm Hành trong Bát Chu Tam Muội Kinh nói: “Phật bảo Bạt Đà Hòa: “Nếu có người, bảy ngày bảy đêm vào đạo trường, xả tất cả sự duyên, bỏ việc ngủ nghỉ, một lòng chuyên tưởng niệm thân sắc vàng của đức A Di Đà Phật, hoặc một ngày, hoặc ba ngày, hoặc bảy ngày, hoặc hai tuần, năm, sáu, bảy tuần, hoặc cho đến trăm ngày, hoặc cho đến trọn đời, chí tâm quán tưởng đức Phật A Di Đà, cùng xưng niệm danh hiệu ngài, người đó sẽ được đức Phật nhiếp thọ, sau khi được Phật nhiếp thọ, người đó biết chắc tội chướng sẽ được tiêu diệt, và được vãng sinh Tịnh độ.”

Phật nói: “Nếu có người chuyên tâm tu tập pháp Niệm Phật Tam Muội này, người đó thường được tất cả chư thiên, bốn đại thiên vương cùng tất cả tám bộ quỷ thần thường theo bên cạnh ủng hộ, ưa thích gần gũi, vĩnh viễn không còn bị các quỷ thần ác gieo tai giáng họa, làm cho khổ não. Trong phẩm Trì có nói đầy đủ. Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.

Lại như quyển thứ ba của kinh Quán Đảnh có nói: “Nếu có người thọ trì Tam quy Ngũ giới, đức Phật sẽ bảo trời Đế Thích: “Ông nên sai sáu mươi mốt vị thiên thần, thường theo bên cạnh hộ trì người thọ giới, không để cho các ác quỷ thần lộng hành, gieo rắc tai họa đến người đó.” Trong phẩm Hộ Trì có nói tường tận. Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.

Lại như Tịnh Độ Tam Muội Kinh nói: “Phật bảo Bình Sa Đại Vương: “Nếu có thiện nam thiện nữ nào, trong mỗi tháng sáu ngày trai, … hướng về tất cả nghiệp đạo như thiên tào, địa phủ, v.v…, thọ trì trai giới, đức Phật sẽ sai khiển hai mươi lăm vị thiện thần, thường đến gần gũi hộ trì người thọ trì trai giới đó, khiến cho tất cả quỷ thần ác không thể đến gần não hại hành giả, mà cũng khiến cho người đó thường được an ổn, không bị các bệnh tật, chết chóc, tai nạn, v.v… Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.

Kính bạch các hành giả! Nếu các vị muốn trong đời này, ngày đêm chuyên niệm tương tục danh hiệu đức A Di Đà Phật, hoặc chuyên tụng A Di Đà Kinh, xưng dương lễ bái tán thán chư thánh chúng trang nghiêm cầu nguyện vãng sinh, hoặc mỗi ngày tụng kinh A Di Đà mười lăm biến, hai chục, ba chục biến trở lên, hoặc tụng bốn chục, năm chục, hoặc trăm biến trở lên, nguyện tụng đủ mười vạn biến, lại còn xưng dương, tán thán, lễ bái y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc.

Ngoài việc vào đạo trường tu Niệm Phật Tam Muội, mỗi ngày nên niệm danh hiệu Phật A Di Đà một vạn câu, suốt một đời không gián đoạn, thì sẽ được đức A Di Đà gia bị, trừ diệt tội chướng. Lại còn được Phật A Di Đà và chư thánh chúng thường đến hộ niệm. Vì được hộ niệm, cho nên hành giả phước thọ tăng long, đời sống bình yên an lạc. Những điều này được nói đầy đủ trong Thí Dụ Kinh, chỉ có các kinh Tam Muội và Tịnh Độ Tam Muội là không nói đến. Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.

Trích trong “Quán Niệm A Di Đà Phật Tướng Hải Tam Muội Công Đức Pháp Môn” do Thiện Đạo Đại Sư tập ký, TK Thích Hoằng Đạo dịch

Pháp Ngữ Tịnh Độ của Đại Sư U Khê

Pháp Ngữ Tịnh Độ của Đại Sư U KhêTất cả pháp môn tu hành đều là tên thuốc để trị bịnh mà Như Lai giả lập ra. Do vì bịnh nhiều nên thuốc cũng lắm. Muốn tìm cầu con đường thẳng tắt nhưng lại chính yếu nhất, thì không gì hơn pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Có thể nói đây là bí quyết để mau thành tựa Phật đạo. Bởi vì muốn thoát ly sanh tử, cần phải nhờ vào ba lực, đó là Tự Lực, Tha Lực và Công đức lực.

Nếu chỉ cốt mong khai mở được Tâm địa, xé thủng lưới Vô minh, ra khỏi sông Ái dục mà làm Phật làm Tổ thì gọi là Tự Lực. Đây là những bậc Long tượng của Tông môn, Đại trượng phu trong Phật pháp. Những người đó, là những bậc Đại Bồ tát, Thanh văn, bậc đại Tổ sư trong thời Phật tại thế hay thời kỳ Chánh pháp. Trong thời Tượng pháp, Mạt pháp, căn khí chúng sanh ngày càng hạ liệt, có người tu nhưng không liễu ngộ, hoặc có liễu ngộ nhưng không sâu xa. Quán chiếu tự tâm tựa hồ giải thoát, nhưng khi đối cảnh lại vẫn hoàn mê.

Dẫu có không mê thì cũng chẳng khác nào đồ gốm chưa nung. Bồ tát còn mê khi cách ấm, Sơ quả còn muội lúc thập thai, thì Bác địa phàm phu hèn gì không trôi theo dòng Nghiệp. Đó là tự lực nhưng nào có ích chi, xuất trần nhưng làm gì có xuất. Một sai lầm thì muôn ngàn sai lầm, thật là ớn lạnh!

Thế nên, chư Phật, Bồ tát mới lập bày phương tiện, thi thiết ra pháp môn nương nhờ tha lực. Đối với pháp môn này, kinh luận diễn thuyết cũng nhiều, bao phen dặn đi dặn lại, hết lời tán thán ngợi khen. Tổ tổ hoằng dương, người người sùng phụng. Chỉ có một môn Niệm Phật cầu sanh Tây phương mới là cứu cánh. Mỗi lời mỗi lời đều xiển dương Duy tâm Tịnh độ, từng câu từng câu đều diễn thuyết Bổn tánh Di đà. Kẻ ngộ thì liễu ngộ tâm chúng sanh, tâm Phật hoàn toàn bình đẳng; tâm độ Phật đạo nào có khác đâu. Người tu thì đạt được Diệu quán và Diệu cảnh khế nhau, Tự lực và Tha lực cùng có. Huống gì là Công đức tự lực vốn có. Tánh cụ từ vô thỉ nhân đây mà rõ ràng, công đức từ muôn đời nhờ đây mà đốn phát. Cho nên mãn báo Ta bà thì Tịnh độ hiện tiền, hóa sanh trong hoa sen mà không mê trong sanh ấm. Một nhập thì vĩnh viễn nhập, chẳng bao giờ còn thối chuyển. Vì vậy mà những người vãng sanh đều là A bệ bạt trí, đông không kể xiết. So với sự nhập đạo ở Ta bà, thì trong cõi này cảnh trần thô thô trược, ác đảo hiểm nạn ở đâu cũng có, nên cố nhiên không như cõi Cực Lạc. Thế nhưng, nói không khó, thực hành mới khó. Đây chính là chỗ người xưa chỉ dạy, người nay nên theo. Dương Thứ Công nói rằng: “Ái không nặng thì không sanh Ta bà, niệm không nhất thì không sanh Cực Lạc”.

Phàm niệm Phật chính là làm cho cái tâm của mình chuyên nhất. Cần phải khẩn thiết trì danh, chuyên tâm bất loạn. Còn như có chí nguyện mà không thường niệm, niệm nhưng không chuyên nhất, thì chẳng khác nào bị tình ái dẫn đi. Hễ làm cho tâm ái nhẹ đi tức là loại trừ được vọng tưởng, chặt đứt được tình căn, thoát ra khỏi lưới Ái. Còn như niệm không nhưng không thể quên, quên nhưng không quên hết, thì chẳng khác nào tâm không được chuyên nhất. Ta bà còn một niệm Ái nặng, thì khi lâm chung bị niệm Ái này dẫn dắt, huống gì là nhiều tâm Ái ư? Cực Lạc còn một niệm không chuyên nhất, thì khi lâm chung bị niệm này lưu chuyển, huống gì còn nhiều niệm ư?

Ái có nhẹ, có nặng, có mỏng, có dày, có chánh báo, có y báo. Đơn cử trước mắt như: Cha mẹ, vợ con, anh em bè bạn, công danh phú quý, văn chương thi phú, đạo thuật nghề nghiệp, ăn uống, áo quần, nhà cửa vường ruộng, suối rừng hoa cỏ, của cải bạc vàng, nhiều không kể xiết. Hễ còn nhớ nghĩ một vật tức là còn tâm Ái tức niệm không chuyên nhất. Hễ còn một niệm không chuyên nhất thì không được vãng sanh. Ôi! Hai câu “Ái không nặng thì không sanh Tà bà, niệm không nhất thì không sanh Cực Lạc” thật là kim vàng chữa bịnh mờ mắt, là Thánh dược trị bịnh nan y. Nhưng người có chí nguyện cầu sanh Cực Lạc, nên viết trên vách, khắc trong xương, ngày ngày cung kính đọc tụng, niệm niệm cần phải khắc ghi. Ái của Ta bà ngày càng nhẹ, niệm của Cực Lạc ngày một chuyên, thì đó lại đã nhẹ lại càng nhẹ hơn để đạt đến vô niệm; đã chuyên nhất lại càng chuyên nhất để đạt dân đến chỗ cùng tột. Dù chưa ra khỏi Uế độ nhưng không phải là khách ở mãi trong Ta bà, tuy chưa sanh trong Bảo sở nhưng đã là tân khách ở Cực Lạc. Lâm chung chánh niệm hiện tiền thì chắc chắn vãng sanh Cực Lạc.

Có người hỏi rằng: Phải chăng là làm cho Ái được nhẹ?

Đáp: Làm cho Ái được nhẹ đâu bằng làm cho niệm chuyên nhất.

Hỏi: Vậy thì làm cho niệm chuyên nhất là đúng ư?

Đáp: Làm cho niệm chuyên nhất đâu bằng làm cho Ái được nhẹ.

Có người mỉa mai rằng: Sư nói kiểu chuột có hai đầu, người học không biết phải theo đầu nào mới đúng đây.

Sư đáp: Đó không phải là hai đầu, mà muốn nói đến Nhất niệm. Bởi vì, sở dĩ niệm không chuyên nhất là do tán tâm chạy theo duyên mà ra. Tán tâm chạy theo duyên là do loạn tưởng chạy theo cảnh mà có. Ta bà có một cảnh thì chúng sanh có một tâm, chúng sanh có một tâm thì Ta bà có một cảnh. Muôn duyên náo động bên trong nên dong duổi tìm cầu ở bên ngoài. Tâm và cảnh theo nhau, thì Ái giống như trần sa. Cho nên muốn làm nhẹ tâm Ái đó thì gì bằng đoạn cái tâm duyên theo cảnh đó. Muôn cảnh đều định, vạn duyên đều tịnh thì Nhất niệm tự thành. Nhất niệm mà thành thì Ái duyên đều đứt. Cho nên nói:“Muốn làm chuyên nhất cái niệm của mình thì không gì hơn làm nhẹ cái tâm Ái của mình. Muốn làm nhẹ tâm Ái của mình thì không gì hơn làm chuyên nhất cái niệm. Cái thế của Ái và Niệm không cùng tồn tại, giống như tướng sáng và tối đối nghịch nhau”.

Có người hỏi: Bít lấp muôn cảnh có đúng chăng?

Đáp: Ta nói bít lấp muôn cảnh là không phải ngăn trừ vạn hữu, cũng không phải là nhắm mắt không nhìn, mà chính là gặp cảnh thì phải liễu tri rằng nó rỗng không, gặp gốc thì phải thấu triệt được ngọn.

Vạn pháp vốn chẳng tự có, sở dĩ có là do tình chấp. Cho nên tình có thì vật có, tình không thì vật không. Một khi vạn pháp rỗng không thì bản tánh hiện tiền. Bản tánh hiện tiền thì tình niệm liền dứt. Nó vốn tự nhiên như vậy chứ không hề miễn cưỡng. Kinh Lăng Nghiêm gọi đó là Cái thấy và cảnh bị thất đều là tướng vọng tưởng, như hoa đốm giữa hư không, vốn không thật có. Cái thấy và cảnh bị thấy này nguyên là thể giác ngộ nhiệm mầu thanh tịnh sáng suốt. Như vậy thì tại sao trong đó lại có phải có quấy? Do đó, muốn bít lấp cảnh này thì không gì hơn liễu đạt được vật lớn rỗng không thì tình chấp tự dứt. Tình chấp mà dứt thì Ái chấp không sanh, mà đó chỉ là do tâm hiện, và niệm chuyên nhất được thành tựu.

Trong Kinh Viên Giác chép: “Biết huyễn liền lìa, chẳng bày phương tiện, lìa huyễn tức giác, vốn chẳng thử lớp. Cái này mất đi, cái kia tồn tại, không thể suy lường, hiệu nghiệm mau chóng, giống như đánh trống”. Vì vậy người học cần nên dốc tâm nghiên cứu.

Lại hỏi: Làm nhẹ tâm Ái và làm cho niệm chuyên nhất giống nhau hay khác nhau?

Đáp: Có thể làm nhẹ tâm Ái cõi Ta bà nhưng chưa chắc đã có thể làm chuyên nhất niệm ở Cực Lạc. Có thể làm chuyên nhất niệm ở Cực Lạc tất có thể làm nhẹ tâm Ái ở Ta bà. Đây là đứng giữa có chí nguyện và không chí nguyện mà nói như vậy. Chứ thật ra tâm Ái nếu không phải Nhất niệm thì không thể quên. Niệm nếu chẳng phải quên Ái thì không chuyên nhất. Vì vậy phương pháp hành trì hỗ tương cho nhau không hề gián đoạn.

Lại hỏi: Như làm nhẹ tâm Ái thì được rồi, còn làm cho niệm chuyên nhất thì sao?

Đáp: Phương pháp làm cho niệm chuyên nhất có ba, đó là Tín, Hạnh và Nguyện. Không nghi ngờ gọi là Tín. Nếu còn một nghi ngờ thì tâm không thể nào chuyên nhất được. Do đó khi cầu sanh Tịnh Độ, thì tâm thuần tín đứng đầu. Thế nên hành giả cần phải tụng khắp Kinh điển Đại thừa, học rộng giáo môn như Tổ. Hễ gặp những kinh sách luận về Tịnh độ, đều phải nghiên cứu kỹ lưỡng. Liễu đạt được Cực Lạc nguyên là Tịnh Độ duy tâm của chính mình chứ không phải ở cõi khác. Thấu triệt được Di đà nguyên là chân thân Phật của chính bản tánh chúng ta chứ không phải Đức Phật nào khác. Tóm lại có hai ý, một là liễu ngộ được Diệu Hữu châu biến cùng khắp đê là cội gốc cho việc ưa thích cõi Tịnh; hai là liễu ngộ được Chơn Không lìa xa tất cả là nền tảng cho việc xả bỏ cõi Uế.

Thuần tính giống như con mắt để nhìn, tu hành giống như đôi chân để đi. Tính mà không hạnh, cũng như có mắt mà không có chân. Hạnh mà không có Tín, cũng như có chân mà không có mắt. Cho nên khi có Tín giải đầy đủ, cần phải niệm Phật tu hành, giống như có đủ mắt và chân thì mới có thể đến được Cực Lạc. Hạnh môn có hai, đó là Chánh hạnh và Trợ hạnh.
Chánh hạnh lại có hai:

1. Xưng danh: Như trong Kinh Tiêu Bản Di đà nói đến Thất nhật trì danh, Nhất tâm bất loạn, có cả Sự nhất tâm và Lý nhất tâm. Nếu miệng xưng niệm danh hiệu Phật, buộc tâm bất loạn, giả sử tâm duyên theo ngoại cảnh, thì phải nhiếp tâm về lại với câu niệm Phật. Chỗ này cần phát sinh tâm quyết định mới thành. Dứt trừ niệm vọng đời sau, vứt bỏ hết việc đời, buông bỏ các tâm duyên, khiến cho tâm niệm dần dần tăng trưởng. Từ dần dần cho đến lâu ngày, từ ít mà trở thành nhiều, từ một ngày hai ngày cho đến bảy ngày, đến khi nào Nhất tâm bất loạn mới thôi. Đây chính là sự nhất tâm.

Nếu được như vậy rồi, tức là Tịnh nhân của Cực Lạc đã thành tựu. Lúc sắp mạng chung nhất định có chánh niệm, thân không có bịnh khổ, không bị ác nghiệt trói buộc, biết trước giờ chết, thân tâm hoan hỷ, an nhiên mà đi, ngồi thẳng mà mất. Lại đích thân thấy Phật Di đà phóng quan tiếp dẫn, tất sanh về Tịnh Độ. Lý nhất tâm cũng chẳng có gì khác cả, chỉ có điều trong Sự nhất tâm, niệm niệm đều liễu đạt được Tâm năng niệm, Phật sở niệm, ba đời đều bình đẳng, mười phương đều hỗ dung, chẳng phải không, chẳng phải có, chẳng phải tự, chẳng phải tha, không đến không đi, không sanh không diệt. Tâm của một niệm hiện tiền chính là Tịnh Độ của vị lai. Niệm mà chẳng niệm, chẳng là niệm mà niệm. Vô sanh nhưng mà sanh, sanh nhưng mà vô sanh. Ngay trong chỗ không thể niệm đó nhưng dõng mãnh cầu sanh. Đó là trong Sự nhất tâm lại hiển bày Lý nhất tâm.

2. Quán tưởng: Như trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật có nói rất đầy đủ 16 cảnh Sở quán. Quan trọng nhất trong pháp quán Phật đó chính là quán Phật Di đà thân cao một trượng sáu, toàn thân có màu Tử mà kim bao phủ, đứng trên hoa sen duỗi tay để tiếp dẫn. Thân ngài có 32 tướng của đại nhân, mỗi tướng có 80 vẻ đẹp tùy hình. Quán tượng như vậy cũng có Tưởng và có Lý. Sự quán thì buộc tâm theo Phật. Trước tiên quán dưới chân Phật bằng phẳng như đáy chậu, kế đến quán tướng ngàn nan hoa dưới lòng bàn chân. Như vậy mà lần lượt quán ngược lên đến tướng nhục kế trên đỉnh đầu. Lại từ tướng nhục kế mà quán xuống đến tướng bằng phảng dưới lòng bàn chân. Trong lúc quán phải phân minh rõ ràng không được tán tâm.

Còn như Lý quán, trong kinh chép: Chư Phật Như Lai là pháp giới thân, thể nhập trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Cho nên lúc tâm tưởng đến Phật, thì tâm tức là 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Khi tâm tác quán Phật thì tâm ấy là Phật. Nghĩa lý này có nói rõ trong “Vi Diệu Tam Quán”. Như trong Quán Kinh Sớ Diệu Tông Sao nói rằng: Hai thứ chánh hạnh này phải ngay trên tướng mà tiến tu. Trong lúc đi đứng nằm ngồi phải nhất tâm xưng niệm danh hiệu. Trong lúc ngồi kiết già phải tâm tâm tác quán. Đi mệt thì ngồi kiết già mà quán Phật, ngồi xong lại đi kinh hành mà xưng niệm. Nếu trong bốn oai nghi tu hành không gián đoạn, thì nhất định được vãng sanh.
Trợ hạnh cũng có hai:

Hạnh của thế gian: Như hiếu thuận với cha mẹ, làm những viêc nhân từ, tâm từ không sát hại, giữ gìn các giới cấm, tất cả các việc làm lợi ích đó, nếu đem hồi hướng về Tây phương Tịnh Độ, thì đố đều là nhân hạnh trợ giúp cho đạo quả.

Hạnh xuất thế gian: Như lục độ vạn hạnh, vô số các công đức khác, đọc tụng kinh Đại thừa, tu tập các sám pháp, cũng cần phải dùng tâm hồi hướng để trợ tu, thì đó đều là nhân hạnh của Tịnh Độ.

Lại có một thứ trợ hạnh vi diệu nữa, đó là: Ngay trong lúc phan duyên theo ngoại cảnh, ở bất cứ nới nào cũng phải dụng tâm. Như gặp quyến thuộc, phải tác quán đó là pháp quyến của Tây phương, dùng pháp môn Tịnh Độ mà khai hóa, dẫn dắt họ, khiến cho tâm Ái nhẹ đi, niệm được chuyên nhất. Họ mãi mãi là quyến thuộc Vô sanh trong tương lai.

Nếu lúc khởi tâm ân ái, thì phải nhớ nghĩ rằng quyến thuộc của Tịnh Độ không có tình ái, đâu phải đến lúc vãng sanh Tịnh Độ mới xa lìa ân ái này?

Nếu lúc khởi tâm sân hận, thì phải nhớ nghĩ rằng quyến thuộc của Tịnh Độ không có chỗ nào, đâu phải đến lúc vãng sanh Tịnh Độ mới lìa tâm sân hận này?

Nếu lúc chịu khổ, phải nhớ nghĩ rằng Tịnh Độ không có các thứ khổ, chỉ có an vui; khi được an vui phải nhớ nghĩ rằng sự an ủi trong cõi Tịnh Độ không thể tính kể, không có đối đãi.

Lúc phan duyên theo ngoại cảnh đều dùng những tâm niệm tương tợ như vậy tùy cảnh mà tác quán, thì bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng đều là trợ hạnh của Tịnh Độ.

Thứ ba là Nguyện. Con thuyền Tịnh độ cần phải dùng Tín làm bánh lái, Hạnh làm cột buồm mái chèo, Nguyện làm cánh buồm đón gió. Nếu không có bánh lái thì không thể điều khiển con thuyền đi đúng hướng. Nếu không có cột buồm mái chèo, thì thuyền không thể chuyển động. Nếu không có cánh buồm đón gió thì thuyền không thể cỡi sóng lướt tới. Cho nên sau Hạnh phải nói đến Nguyện.

Nguyện có chung, riêng, rộng, hẹp, có cùng khắp, có hạn cuộc. Chung, chẳng hạn như Cổ đức lập ra lời văn nguyện riêng. Rộng, như bốn hoằng thệ nguyện, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Hẹp, như mỗi người tự lượng sức mình mà quyết chí vãng sanh. Hạn cuộc, như tụng theo thời khóa, theo chúng mà phát nguyện. Cùng khắp, thì lúc nào cũng phát nguyện, ở đâu cũng phát tâm, nhưng cần phải tương ứng với bốn hoằng thệ nguyện, không được tự ý tự chuyên mà vọng lặp ra. Nhìn chung các nguyện được phát ra, thì riêng thù thắng hơn chung. Bởi vì phát nguyện của người khác. Còn phát nguyện riêng thì tự mình phát tâm. Thế nhưng còn tùy theo lời văn phát nguyện chung đó mà sanh quyết chí, thì tuy chung nhưng lại mà riêng. Nếu trong lời văn phát nguyện riêng mà được nhiều người phát nguyện giống như vậy thì riêng đã trở thành chung. Lại nữa, phát nguyện rộng thì thù thắng hơn phát nguyện hẹp. Rộng từ phát tâm Từ lớn được quả cao, hẹp thì phát Bi nguyên cạn cho nên được quả thấp. Lại phát nguyện cùng khắp thì thù thắng hơn phát nguyện hạn cuộc. Vì hạn cuộc thì thường bị gián đoạn, cùng khắp thì niệm niệm đều viên thành.

Ba cách phát nguyện như vậy, đủ để kỳ vọng sanh Tịnh Độ, mau được thấy Phật Di đà. Tất cả pháp môn Tịnh Độ đều không ngoài ở đây.

Trích từ “Tịnh Độ Tùng Thư” của Đại sư U Khê
Việt dịch: Đồng Ngộ

Niệm Phật Không Nên Tự Lợi

Niệm Phật Không Nên Tự LợiPháp môn niệm Phật của chúng ta đang tu tập là ‘dị hành đạo’, đạo dễ thực hành mà chẳng thể thành tựu, nguyên nhân là vì không thể buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, niệm niệm vẫn còn tự tư tự lợi. Dùng tâm niệm này tu học thì đúng như người xưa đã nói: ‘Hét bể cổ họng cũng uổng công’! Thế nên chỉ cần buông xuống ý niệm tự tư tự lợi thì niệm Phật nhất định sẽ đắc lực, thân tâm sẽ khinh an. Cho dù có một chút bịnh thì cũng chỉ vì ăn uống chẳng cẩn thận nên phát ra cảm mạo phong hàn mà thôi, sẽ chẳng sanh bịnh nặng.

Nếu thật sự nhìn thấu, buông bỏ tự tư tự lợi, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, trong kinh Di Ðà nói: “Nếu (niệm) từ một ngày đến bảy ngày” sẽ được thành công. Những người y giáo tu hành xưa nay niệm Phật vãng sanh rất nhiều, phổ biến nhất là từ hai đến ba năm thì vãng sanh.

Tại sao có người chẳng nhiều hơn bảy ngày, có người lại phải niệm hai ba năm? Người tin sâu nguyệt thiết, thực sự niệm đến khi mất hết những tâm niệm tự tư tự lợi thì tự nhiên cảm ứng hiện tiền, công phu thành tựu.

Chúng ta xem trong Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục, Vãng Sanh Truyện, vào đời nhà Tống pháp sư Oánh Kha tin sâu nguyện thiết niệm ba ngày liền thành công. Nếu lòng tin và nguyện lực chưa đạt đến mức khẩn thiết thì phải niệm hai, ba năm. Thế nên những người này ‘sanh tử tự tại’, chẳng phải là thọ mạng chấm dứt mà là thọ mạng hãy còn nhưng họ bỏ ra đi sớm, đạo lý là như vậy.

Chúng ta nhìn thấy có nhiều người ra đi rất tiêu sái (tiêu sái nghĩa là nhàn hạ, chẳng vướng bận) tự tại, chẳng có bịnh khổ, [làm cho người khác] vô cùng hâm mộ. Tôi thường nhắc nhở mọi người, chúng ta nhất định phải làm được. Nếu làm chẳng được thì trong lúc bịnh nặng, thân thể chịu sự sắp đặt của người khác, tự mình chẳng thể làm chủ, sẽ chẳng nắm chắc việc vãng sanh, thế nên bây giờ phải dự bị cho tương lai.

Phương pháp tốt nhất là chẳng cần người khác chăm sóc, có thể dự biết trước ngày giờ ra đi, muốn đi lúc nào thì ra đi lúc đó. Nhất định phải hạ quyết tâm làm việc này cho bằng được thì đời này mới chẳng luống uổng. Những việc còn lại toàn là giả, chỉ có việc này là thật mà thôi. Chúng ta nói về ‘tự lợi’, đây mới thực sự là tự lợi.

Nhưng ‘tự lợi’ phải được xây dựng trên cơ sở của ‘lợi tha’. Trong đời sống sinh hoạt thường ngày, khởi tâm động niệm đều vì chúng sanh chứ chẳng vì mình. Suy nghĩ cho mình là sai lầm, phải nghĩ cho chúng sanh, quên mất cái ‘tôi’ đi. Nhất định phải vì chúng sanh thì tâm niệm tự tư tự lợi mới có thể đoạn trừ; chỉ cần đoạn trừ thì công phu tu học mới có thể nắm chắc.

Chúng ta niệm niệm nghĩ đến chúng sanh, chúng sanh là chúng duyên hòa hợp mà sanh, bao gồm cả động vật, thực vật, và khoáng vật. Thí dụ cái bàn không sạch thì mình chùi cho sạch; cái ghế không ngay ngắn thì mình sắp cho nó ngay ngắn, như vậy đều là vì chúng nó. Cách làm này tức là Lễ Kính Chư Phật trong mười nguyện Phổ Hiền, kính người, kính sự, kính vật.

Ðừng nên có tâm riêng tư, dục vọng, tâm niệm muốn chiếm hữu (chiếm đoạt), tâm niệm chiếm hữu này là căn bản của sanh tử luân hồi, là nguồn gốc của hết thảy tội nghiệp; chúng ta phải nhổ trừ tội căn này. Tại sao không được chiếm hữu? Phật dạy ‘Hết thảy pháp đều không’, ngạn ngữ cũng nói: ‘Sanh chẳng mang đến, chết chẳng mang theo’, vậy thì tại sao có thể chiếm hữu được? Ðây là từ trên hiện tượng thô thiển mà nói.

Ði sâu thêm thì Phật dạy: ‘Hết thảy các pháp do nhân duyên sanh, chẳng có tự tánh, đương thể tức không, trọn chẳng thể được’ (Nhất thiết chư pháp, nhân duyên sở sanh, vô hữu tự tánh, đương thể tức không, liễu bất khả đắc), chẳng những các vật ngoài thân chẳng thể được, ngay cả thân thể này cũng chẳng thể được.

Chẳng có tâm chiếm lấy, chiếm hữu những vật ngoài thân, đối với thân thể cũng chẳng có ý niệm là thân ‘của mình’, như vậy thì vấn đề sẽ được giải quyết. Lúc đó ‘Một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật’, quyết định sẽ sanh Tịnh Ðộ. Ðó là giải thoát ra khỏi lục đạo luân hồi, ra khỏi thập pháp giới. Ðược vậy thì may mắn lắm!

Từ vô thỉ kiếp đến nay chúng ta chẳng gặp được duyên thù thắng, đời này rất may đã gặp được. Trong Quán Kinh chú giải Thiện Ðạo đại sư nói: ‘Cửu phẩm vãng sanh đều là do gặp được duyên khác nhau’ (Cửu phẩm vãng sanh, tổng tại ngộ duyên bất đồng).

Nói một cách khác khi gặp duyên thù thắng thì phàm phu cũng có thể vãng sanh thượng thượng phẩm; Bồ Tát nếu chẳng gặp duyên thù thắng thì lại vãng sanh vào phẩm trung, hạ. ‘Duyên’ rất khó gặp, ấy là ‘có thể gặp mà chẳng thể cầu’. Trong kinh giảng ‘thiện tri thức là duyên’. Nếu được thiện tri thức hướng dẫn, thiện hữu nâng đỡ, đồng tham đạo hữu tốt, đạo tràng tu hành tốt, thì tu hành sẽ chẳng có chướng ngại.

Hiện nay chúng ta đã có đầy đủ duyên này, đã được nhưng vẫn chẳng thể thành tựu, vậy thì chỉ có thể trách mình, không thể trách kẻ khác. Nhất định phải biết cơ duyên thù thắng như vậy ‘trăm năm, vạn kiếp khó gặp được’, ‘trong vô lượng kiếp hiếm hoi khó gặp’, có thể thành tựu được hay không, mấu chốt nằm ở chỗ đột phá, phá trừ ‘tự tư tự lợi’.

Phương pháp đột phá là niệm niệm vì chúng sanh, nhất định chẳng vì chính mình; nếu vì mình thì nên vãng sanh Tịnh Ðộ sớm hơn. Thân thể còn lưu lại nơi thế gian này, mỗi ngày đều phải phục vụ cho chúng sanh, như vậy là hoàn toàn giống với hạnh nguyện của chư Phật Như Lai, [làm vậy] bạn sẽ được đại tự tại. Ðạo lý và sự thật này chúng ta phải hiểu tường tận, y giáo tu hành.

Phương Hiếu