Chị tên là Kim (tên nhân vật được thay đổi vì lí do tế nhị), chủ của 2 trung tâm Spa nổi tiếng ở Hà Nội. Tôi (Hoàng Anh Sướng) quen thân chị đã lâu, từ khi Hiên trà Trường Xuân của tôi còn ở 180 Yên Phụ, gần Hồ Tây và chị là khách hàng thường xuyên của quán.
Chị là một người đàn bà đẹp. Trông chị lúc nào cũng lộng lẫy, cao sang. Điều khiến ai cũng băn khoăn, thắc mắc về chị là xinh đẹp, giàu có, tài giỏi như thế mà ở tuổi 40, chị vẫn sống độc thân mặc dầu biết bao cánh đàn ông mê đắm chị.
Tôi chơi thân với nhiều nhà ngoại cảm, trong đó, có nhà ngoại cảm Nguyễn Minh Nguyệt, một trong những người gọi hồn nổi tiếng nhất Việt Nam. Tôi đã từng nhờ chị Nguyệt gọi hồn, soi đường âm, gỡ vướng mắc cho rất nhiều người thân quen.
Tôi nghi ngờ chị Kim có vấn đề gì đó về tâm linh nên đường tình duyên mới lận đận như vậy. Đã nhiều lần, tôi ngỏ ý muốn đưa chị đến gặp nhà ngoại cảm Minh Nguyệt nhưng lần nào chị cũng từ chối. Chị bảo, từ bé đến giờ, chị luôn sợ ma nên chị sợ đi gọi hồn lắm. Có một lần, chị đến nhà tôi chơi, đúng lúc nhà ngoại cảm Minh Nguyệt có mặt ở đó. Giới thiệu hai người làm quen với nhau, vừa uống được ngụm trà, chị Kim đã lấy lý do có cuộc hẹn quan trọng nên về sớm. Tiễn chị Kim ra cổng, quay trở lại phòng khách, nhà ngoại cảm Minh Nguyệt bảo:
– Cô ấy trông phong lưu, quyền quý thế thôi nhưng mà khổ đau nhiều lắm. Đời nát như tương ấy.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Sao chị lại nói vậy?
Chị Nguyệt cười bí hiểm:
– Chị nhìn thấy sau lưng cô ấy toàn là vong thai nhi bám. Mặt đứa nào cũng uất ức, căm hờn. Đời cô ấy yên làm sao được. Mà chị nói trước, cô ấy thế nào cũng bị ung thư tử cung cho mà xem. Không lâu nữa đâu.
Bẵng đi một thời gian không thấy chị Kim qua chơi. Điện thoại cho chị thì máy không liên lạc được. Cho mãi đến một hôm, chị bất ngờ xuất hiện ở Hiên trà của tôi. Thân hình gầy guộc, tiều tụy, đầu tóc xác xơ, mặt mũi bơ phờ, xám ngoét. Tôi giật mình, suýt không nhận ra chị. Chị nói, giọng yếu ớt, mắt ngấn lệ:
– Chị bị ung thư tử cung. Vừa xạ trị đợt hai xong nên người còn mệt lắm. Lâu rồi em có gặp nhà ngoại cảm Minh Nguyệt không? Chị muốn nhờ em đưa chị đến nhà chị ấy gọi hồn bố mẹ chị. Chị sợ chị không sống được bao lâu nữa đâu em ơi.
Nói đoạn, chị òa khóc, đôi vai gầy guộc rung lên từng chặp. Tiếng khóc tức tưởi chứa đựng cả một trời đau thương.
Ngay buổi tối hôm ấy, chúng tôi đã có mặt tại nhà chị Nguyệt. Chị Kim trình bày tâm nguyện muốn một lần được trò chuyện với bố mẹ vì họ đã mất từ lâu. Sau khi làm một số nghi thức tâm linh tại gian thờ, chị Nguyệt bảo:
– Chị không thấy bố mẹ em về đâu. Chỉ thấy đứa con trai đầu của em. Nó đang nằng nặc đòi lên nói chuyện với em đây này.
Bỗng tôi giật nảy mình. Nhà ngoại cảm Nguyệt, mặt đỏ bừng, mắt giận dữ, gào lên, giọng ngọng líu như một đứa trẻ:
– Tôi hận các ngươi đời đời kiếp kiếp. Vĩnh viễn không tha cho các ngươi. Nhất định tôi sẽ quay lại tìm các ngươi báo thù.
Chị Kim bưng mặt khóc nấc lên. Kinh nghiệm nhiều năm nghiên cứu tâm linh cho tôi biết, vong linh cháu bé đã nhập vào nhà ngoại cảm Minh Nguyệt. Tôi vội chắp tay, niệm “A di đà Phật” rồi hỏi cháu bé:
– Cháu ơi! Đây là mẹ cháu. Sao cháu nỡ nói nặng lời với mẹ cháu như vậy? Cháu không thấy mẹ cháu đang đang đau khổ tận cùng sao?
Đứa bé vừa nói, vừa khóc, giọng đầy uất hận:
– Cháu không gọi mụ ấy bằng mẹ. Vì mụ ấy không thương yêu cháu. Mụ ấy giết cháu. Mẹ gì mà lại đi giết con? Mà lại giết đến hai lần. Vì hai lần cháu đầu thai làm con mụ ấy, mụ ấy đều đi nạo phá. Lần đầu thì đẻ cô-vắc. Lần sau thì cắt rời cháu ra từng mảnh. Chú biết không, khi mang thai cháu 6 tháng, mụ ấy đến phòng phụ sản để nạo bỏ cháu. Bác sĩ khuyên thai to quá rồi, nạo bỏ sẽ nguy hiểm nhưng mụ ấy vẫn kiên quyết nói: “Bác sĩ cứ bỏ. Chết em chịu”. Lúc nghe mụ nói thế, cháu dùng hết sức đạp tay chân thật mạnh trong bụng mụ ấy, hy vọng mụ nhận ra sự hiện diện của cháu mà dừng lại. Nhưng bác sĩ đã dùng tay ấn vào đầu cháu rồi chích một liều thuốc. Đột nhiên cháu cảm thấy toàn thân tê dại, không cử động được nữa. Thoạt đầu, bác sĩ dùng kéo cắt vào tay phải của cháu hai miếng. Tay cháu đứt thành hai khúc. Bác sĩ dùng kìm gắp ra. Tiếp đó, cắt 4 miếng ở chân thành 4 khúc rồi dùng máy hút ra. Toàn thân cháu đau đớn khủng khiếp. Tương tự, phần đầu, cái tai, con mắt… của cháu, bị cắt đi từng miếng, từng miếng. Đau đớn nhất là cắt cái đầu. Bác sĩ cắt rất nhiều lần, lại dùng cái móc hình dao nhọn móc ra, dùng kìm gắp ra. Máu cháu chảy đầm đìa. Tất cả những đau đớn này đều do mụ ấy tạo ra. Cháu không thù hận gì bác sĩ vì bác sĩ có đề nghị sinh cháu ra nhưng mụ ấy không nghe, nghĩa là mụ ấy kiên quyết giết cháu. Đau đớn lắm chú biết không? Cháu phải tu bao nhiêu kiếp mới được lên làm người mà mụ ấy nỡ tước đoạt sự sống của cháu, không cho phép cháu được làm người. Mụ ấy còn giết bao nhiêu đứa em của cháu nữa. Cho nên cháu quyết không buông tha cho mụ ấy. Cháu hận lắm chú ơi!
Nói đoạn, đứa bé òa khóc. Chị Kim càng khóc to hơn. Chị lết hai đầu gối đến gần đứa bé, chắp tay lạy:
– Hãy tha lỗi cho mẹ con ơi! Do hoàn cảnh trái ngang nên mẹ mới phải nạo bỏ con và các em con. Mỗi lần nạo bỏ các con là mẹ đau đớn như đứt từng khúc ruột. Nhưng đời mẹ có quá nhiều đau khổ. Mong các con hãy tha tội cho mẹ.
Bất chợt, hai mẹ con lao vào nhau, khóc nấc lên. Chứng kiến cảnh tượng đó, tôi cũng không cầm được nước mắt. Và rồi, từ cuộc trò chuyện của hai mẹ con kéo dài hơn ba tiếng đồng hồ trong bảng lảng khói hương trầm, đoạn đời đầy nước mắt, tủi nhục, khổ đau của chị Kim đã hiện lên.
Sinh ra trong một gia đình quan chức, bố là chủ tịch huyện, mẹ là phó giám đốc sở thương mại, chị Kim đã trải qua những ngày thơ ấu tuyệt đẹp. Đám cưới chị được bố chị sắp đặt, tổ chức ngay sau khi ra trường.
Đêm tân hôn, vừa tiễn đám bạn ra khỏi cổng, chồng chị hiện nguyên hình là một tên háo sắc, thô lỗ, tình dục với hắn là cơn khát không bao giờ thoả. Mang thai đứa con đầu lòng được 4 tháng. Một hôm, tay lái xe người thấp đậm, mặt rỗ, môi dầy đến thăm chị thì thầm:
– Anh nói với em chuyện này, em không được bảo là anh kể nghe chưa? Thằng Tuấn nhà em nó tằng tịu với một mụ nạ dòng trên Sơn La có một đứa con 3 tuổi rồi, từ trước khi lấy em cơ.
Chị kinh hoàng đến nghẹt thở. Đất trời quay cuồng điên đảo. Chị tất tưởi bắt xe lên tận Sơn La để điều tra ngọn nguồn. Đêm sau, hắn về. Vừa lẳng chiếc túi xuống sàn nhà, hắn đã xô đến, đè ngửa chị ra đi văng. Lấy hết sức, một tay đẩy mặt hắn ra, tay kia vung lên, chị tát đánh “bốp”.
Sững sờ trong giây phút, hắn lại lao đến, hi hí cười. Chúm môi, nhổ đánh “toẹt” bãi nước bọt vào mặt hắn, chị rít lên trong cổ họng:
– Đồ đểu. Mày là thằng khốn nạn. Mày đã phản bội, lừa dối tao.
Giơ bàn tay đen đúa, sần sạn lên má xoa xoa bãi nước bọt, hắn cười gằn, mắt toé lên những tia dữ tợn:
– Á à. Con này láo. Mày lỵ dám chửi ông à. Ông báo cho mày biết, ông lấy mày chỉ để làm vợ hai, vợ bé thôi, hiểu chưa? Đừng có ghen ngược lên như thế. Đểu lắm.
Tiếng khóc vỡ oà. Nỗi đớn đau tủi nhục xen lẫn căm hận khiến đầu chị nhức dại, toàn thân bại hoại, run rẩy. Chị nằm bệt. Sốt li bì. Mặt xám ngoét. Mắt ngây đờ. Lúc cười rú, khi tức tưởi. Ghét chồng, chị bỗng dưng ghét cái thai trong bụng. Chị bỗng thấy giọt máu ấy của chồng trở nên nhơ nhớp. Cái thai càng lớn, chị càng ghét. Và rồi, vào một buổi chiều, chị đến phòng khám phụ khoa tư nhân để nạo bỏ. Bác sĩ khám, thấy thai quá lớn nên bảo phải đẻ cô-vắc. Chị sợ lắm. Đau nữa. Nhìn thằng bé bị lấy ra xám xịt, quắt queo, chị khóc nghẹn. Nhưng sau đó, chị thấy hả hê vì đã nạo bỏ được giọt máu nhơ nhớp của ông chồng tởm lợm. Mấy hôm sau, chồng đi công tác về, chị chỉ lạnh lùng thông báo: Chị bị ngã nên đả sảy thai.
Một thời gian sau, chị lại có mang. Nỗi hận chồng càng lớn, nỗi oán ghét cái thai trong bụng chị càng nhiều. Mang thai 6 tháng, chị lại đi nạo phá. Bác sĩ bảo: nạo thai lần thứ hai khi thai nhi to thế này sẽ rất nguy hiểm. Nhưng chị bảo: “Bác sĩ cứ nạo bỏ giúp em. Xảy ra điều gì, dù là tồi tệ nhất, em xin chịu trách nhiệm”.
Thế là bác sĩ dùng dao kéo cắt từng mẩu thai nhi. Do làm ẩu, tử cung bị rách. Máu chảy dữ dội. Sau lần ấy, chị rút kinh nghiệm. Cứ thấy “ậm oẹ” một hai tháng là chị đi hút ngay. Thai còn bé, người ta chỉ dùng lực hút để hút nó ra ngoài như thể là… máy hút bụi vậy. Sợ thì vẫn sợ nhưng làm riết thành quen. Thế là, vỏn vẹn 4 năm chung sống với chồng, tổng cộng chị đi nạo phá thai tới 12 lần. Chị biết, sớm muộn gì chị cũng phải rời bỏ hắn nên chị kiên quyết không chịu có con chung với hắn.
Thời gian trôi đi, rồi chị cũng đã li dị với hắn. Sau này, chị cũng bắt đầu gặp những cơn ác mộng. Nhiều đêm, hễ nhắm mắt lại là hình ảnh đứa bé trai xám xịt hiện lên mồn một trước mặt chị, nó gào khóc chân tay cầu cứu đạp vào mặt chị . Nghe lời bạn, chị rước một ông thầy chùa Hương đến nhà lập bàn thờ làm lễ giải oan cho vong hồn chị mới thấy yên. Nhưng chỉ được vài hôm những cơn ác mộng lại ập về.
Lần này không chỉ một thai nhi mà cả bầy, hàng chục đứa gào khóc, kêu la, oán trách, nỉ non. Một đêm, trời gần sáng, mệt quá chị thiếp đi. Chị bỗng thấy một bé trai tay lăm lăm cầm con dao nhọt hoắt hình lưỡi liềm, hai mắt đỏ lòm như hai cục máu, lừ lừ tiến về phía chị . Mắt nó nhìn chị chừng chừng rồi bất thình lình đâm một nhát chí mạng vào bụng dưới chị . Chị hét lên, kêu cứu . Nó lạnh lùng vung dao đâm nhất thứ hai, rồi tung người qua cửa sổ bay vèo ra sân. Máu từ bụng chị ào ra giường . Chị ôm bụng, gào lên thảm thiết rồi bật dậy khỏi giường tỉnh giấc . Sờ tay xuống bụng chị vẫn cảm thấy đau buốt . Soi tay dưới ánh đèn ngủ nhưng không thấy máu. Từ đêm đó chị thường tỉnh giấc vào lúc 3h sáng vì đau bụng, hai trung tâm spa vắng khách dần mà không rõ lý do.
Những ngày đầu, bụng dưới chị đau lâm râm. Sau mức độ đau cứ tăng dần, thường xuyên chảy máu ở âm đạo. Trong người lúc nào cũng cảm thấy bực bội. Một hôm chị đang mắng xơi xơi người quản lý trung tâm spa,tự nhiên hai cục quyết đỏ tươi ào ra to bằng lòng bàn tay. Nhân viên vội đưa chị đến bệnh viện phụ sản Hà Nội cấp cứu, bác sĩ kết luận chị bị ung thư cổ tử cung giai đoạn gần cuối, cần đưa sang bệnh viện K để chuyển hóa chất.
Chính thời gian khắc nghiệt nhất chống chọi với bệnh ung thư quái ác này, chị Kim đã cắt hẳn điện thoại, không ra ngoài giao du với ai. Đó chính là lý do tại sao suốt một thời gian dài tôi mất liên lạc với chị. Và sau khi trải qua đợt truyền hóa chất thứ 2, sức khỏe đỡ hơn, chị đã tìm đến tôi, những mong gặp nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Minh Nguyệt vì chị biết rằng tất cả những hiểm họa đổ lên đầu chị là do các vong hài nhi báo oán.
Trích: Những chuyện có thật về Nhân Quả và Phật Pháp Nhiệm Màu
Hoàng Anh Sướng
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Xin phép chư liên hữu trong trang nhà Đường Về Cõi Tịnh cho mình hỏi như này ạ:
Bạn mình có chú chó nhỏ mới mất , muốn đắp mền Quang Minh cho bạn chó nhỏ có được ko ạ và thứ 7 này hoả thiêu chú chó thì tấm mền Quang Minh phải xử lý như nào mới ko phạm tội bất kính ạ ?
Rất mong quý liên hữu giải đáp cho ạ , hoan hỉ công đức vô lượng vô biên của quý liên hữu 🙇♂️🙇♂️🙇♂️
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT 🙇♂️🙇♂️🙇♂️
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT 🙇♂️🙇♂️🙇♂️
Đạo hữu tham khảo bài viết này xem có giúp gì được bạn không nhé. A Di Đà Phật.
https://www.youtube.com/watch?v=On0Id83yFBY
Hỏi: Tôi có biết vài người tu học Phật cũng nhiều năm, khi gặp những gia đình có người thân sắp mất, những vị này khuyên bảo gia đình nên thỉnh mền Quang Minh đắp cho họ. Được vậy người mất sẽ được lợi ích, không bị đọa vào ba đường ác. Nhưng cũng có người cho rằng đó không phải là pháp Phật. Không hiểu rõ ý nghĩa như thế nào, nên mạo muội xin nhờ ban hoằng pháp giải thích cho bản thân tôi được hiểu, và lợi ích cho mọi người trong chánh Pháp giải thoát của Như Lai.
Nguyễn Ngọc Vân.
Đáp:
Bạn Nguyễn Ngọc Vân thân mến,
Biển Phật pháp mênh mông không bờ bến, ngay cả hàng đại Bồ tát Đẳng Giác vẫn còn phải ở gần gũi cúng dường chư Phật, để sớm chứng Diệu Giác. Chỉ khi đã thành quả vị Phật thì mới thật sự là rốt ráo viên mãn. Chúng sinh thì nhiều vô lượng nên Phật Pháp cũng có nhiều cửa để nhập môn. Tùy theo mỗi căn cơ thấp, cao, trí, độn mà thọ. Người học Phật không thể nào nhìn chung chung rồi võ đoán, hay chủ quan theo sự hiểu biết hạn hẹp của mình mà đem ra bàn luận pháp xuất thế của chư Phật. Ngoài trừ quả vị của bậc A La Hán, thì không ai có thể tin được cái tâm vô thường luôn biến chuyển. Tuy nhiên, quả vị A La Hán vẫn còn giới hạn, hàng Bồ tát đối với Pháp rốt ráo Phật lại còn chẳng hiểu, chỉ đem lòng tin chắc thật để đi vào. Vậy chúng ta là ai? Sao dám bàn luận pháp đại thừa rốt ráo. Người đời nay mắc lỗi hủy báng quá nhiều, nên mang danh tu học nhưng lại chẳng đi đến đâu cả.
Trong đại Tạng, đức Phật nói vô số Kinh cũng không ngoài theo căn cơ của mỗi người mà có. Một người tâm đắc ở một bộ Kinh lại chẳng hiểu Phật Pháp nên đem cái kiến thức thô của bản thân rồi bàn luận phím nhã (vì không thực hành) cho vui chuyện. Kim Cang, tánh không, Bát Nhã, sự lý, lý sự v.v…. cũng chẳng ra ngoài được Phật pháp. Vì Phật pháp thâu nhiếp tất cả, có người từ tánh để hiểu sự, có kẻ thì từ sự đến lý. Cách tu tuy khác nhưng vốn đồng một thể chứng đó là vị giải thoát. Chư đại tổ sư của Thiền Tông chẳng phải là bày xích những pháp khác mà chỉ phá chấp cho người đang thọ nhận Pháp. Do đó, người đời nay chẳng nên theo đó mà mang tội. Vì Chư Tổ ở tâm không, lợi ích mà nói ra để phá mê cho hàng đệ tử chớ nên chấp rồi vướng kẹt ở Pháp tu của mình. Người đời nay chẳng hiểu cũng chẳng thực hành chân thật nên trở lại hủy báng Phật, Pháp mà không hay.
Biển Phật pháp tuy mênh mông nhưng chung quy chỉ có một vị giải thoát. Chư Phật, Bồ Tát thị hiện ở đời mở bày vô lượng Pháp môn để thâu nhiếp từng căn cơ của chúng sanh. Chúng sanh này thì hợp với Pháp này, chúng sanh kia thì lại hợp với pháp môn kia. Chúng sanh đầy đủ duyên, hợp với pháp môn này, cũng là pháp môn này nhưng không hợp với chúng sanh nọ. Đâu thể nào bắt buộc ai ai cũng theo như mình cho được vì mỗi chúng sinh đều sở hữu một biệt nghiệp riêng họ (Biệt Nghiệp Vọng Kiến). Cho nên chúng tôi rất tha thiết nhắc nhở với mọi người trên đường tu học Phật phải nên thận trọng, vì nếu là chánh Pháp thì tu theo Pháp nào cũng lợi ích cả. Tuy là vậy, nhưng cũng phải hợp thời, hợp căn cơ của mỗi chúng sanh, mới là diệu pháp. Nếu như bản thân mình không hợp với pháp môn người khác tu học thì chớ nên vội vàng mà hủy báng. Tội hủy báng Đại Thừa thật khó mà sám hối cho tiêu trừ, nên phải cẩn thận.
Mền Quang Minh hay còn gọi là mền Tỳ Lô. Mền Quang Minh là một bảo vật, rất khó mà gặp được chẳng phải như những mền mà chúng ta đang thấy bán hay được thỉnh ở chùa bình thường. Mền Quang Minh có khắc bộ chú Đại Tùy Cầu Tức Đắc oai lực thật khó mà dùng trí thế gian phàm phu như chúng ta hiểu được. Xưa kia khi làm mền Quang Minh phải thỉnh 108 vị cao Tăng lập Đàn Tràng và phải ở trong Mạn Đà La trong suốt 49 ngày đêm, trì tụng đại thần chú Đại Tùy Cầu. Sau 49 ngày trì tụng trong 108 vị Cao Tăng lại chọn ra 10 vị thượng thủ rồi ở trong Mạn Đà La khắc ấn làm bảo chứng.
Người sau nhận thấy công năng diệu dụng của Mền Quang Minh nên cứ mãi lưu truyền cho đến sau này. Nhưng có điều ít người biết đến là mền phải được trì chú từ bậc thật tu thật chứng, không phải cứ lấy đi in là được. Muốn thành tựu cần phải thanh tịnh nhất tâm trì tụng Chú vào mền, như vậy mới thật là mền Tỳ Lô đích thật. Khi người được đắp lên thì Âm siêu Dương thới (người mất được siêu thoát, kẻ còn sống được an vui).
Người muốn sử dụng mền Quang Minh, trước tiên cần phải chí tâm thanh tịnh, trì chú vào mền thì bao việc sẽ thành tựu như công năng oai thần của Đại Thần Chú mà đức Phật đã dạy.
Sở dĩ gọi là mền Quang Minh là vì trên mền (vải) có in bản chú Quang Minh Chân Ngôn, nguyên là Tỳ Lô Giá Na Quán Đỉnh Chân Ngôn. Người trì tụng chân ngôn này trên thân phát ra ánh sáng, nhất là ở đỉnh đầu cho nên gọi là Quang Minh. Đắp mền quang minh cho người mất, giúp tâm của họ không bị tán loạn và giúp họ giữ được sự sáng suốt, một mực hướng về mục đích cứu cánh là đạt đến giải thoát (cần phải có sự trợ giúp của bậc thiện tri thức). Công năng của chú này là nhổ sạch tội chướng. Trong Kinh Mật Tạng dạy; ” Nếu các chúng sinh gây tạo đủ các tội: mười ác, năm nghịch, bốn nặng… thân hoại mệnh chung bị rơi vào đường ác. Dùng Chân Ngôn này gia trì vào đất cát 108 biến rồi rải lên thây của người đã chết, hoặc rải trên ngôi mộ thì Vong Linh ấy liền được sinh vào cõi lành“.
Trong bản Tỳ Lô Giá Na Phật Thuyết Kim Cương Đỉnh Kinh Quang Minh Chân Ngôn Nghi Quỹ nói rõ bốn lý do mà bài Chú này có tên gọi là Quang Minh Chân ngôn:
1/. Thần Chú này là mẹ của trăm ức vô số chư Phật, mẹ của vạn ức vô số Bồ Tát Thánh Chúng. Đây là Đại Thần Chú, đây là Đại Minh Chú, đây là Vô Thượng Chú, đây là Vô Đẳng Đẳng Chú y theo đây gọi là Quang Minh Chân Ngôn.
2/. Đây là bài Chú mà Đức Thích Ca Như Lai luôn thường cung kính, xưa kia khi tu Hạnh Tiên Nhân nhẫn nhục thường tụng Chân Ngôn Chú này thời từ đỉnh đầu hiện ra trăm ngàn ánh sáng chiếu sáng ba ngàn Thế Giới, thành Chính Giác, cho nên gọi là Quang Minh Chân Ngôn.
3/. Năm Trí Như Lai hiện thân Phi Ngã. Khi đấu tranh với Đại Ma thời hiện thân Phi Ngã, từ đỉnh đầu đều phóng trăm ngàn Hỏa Diệu thiêu đốt, diệt quân loại của Ma Vương, kèm theo khi thiêu đốt diệt cung Ma Vương thời chúng Ma Vương dẫn kéo đồng loại đều bị hoại diệt. Vì Như Lai giúp cho thành các Luận, khi hiểu rõ thời liền y theo ánh sáng của trăm ngàn Hỏa Diệu. Trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, đường ác, nơi đen tối, Địa ngục, tất cả nơi khổ não của nẻo ác được ánh sáng của trăm ngàn Hỏa Diệu này chiếu soi đều thành nơi rất sáng tỏ. Y theo sức của ánh sáng nên nhóm Địa Ngục, Quỷ đói, súc sinh thảy đều giải thoát nẻo ác, mau thành Chánh Giác, cho nên gọi là Quang Minh Chân Ngôn
4/. Muốn khiến cho cha mẹ sinh về Tịnh Thổ Cực Lạc thì hướng về phương Tây tụng một ngàn biến ắt quyết định sinh về Tịnh Thổ Cực Lạc. Chính vì thế cho nên nơi lập mộ phần, dùng Chân Ngôn viết, giao cho chữ Phạn của Vô Lượng Thọ, an trí ở mộ phần của cha mẹ, thì vong linh ấy tuy trải qua vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn a tăng kỳ kiếp, chẳng bị đọa vào đường ác, ắt sinh về Tịnh Thổ Cực Lạc, trên tòa báu trong hoa sen. Khi thành Phật thời tam tinh phóng ra ánh sáng trắng, cho nên gọi là Quang Minh Chân Ngôn.
Công Đức, lợi ích tổng quát của Quang Minh Chân Ngôn là:
1/. Quang Minh Chân Ngôn là một Đà La Ni của Mật Giáo, là Chân Ngôn của Đại Nhật Như Lai, được tôn xưng là Tổng Chú của tất cả chư Phật Bồ Tát.
2/. Quang Minh Chân Ngôn thường được dùng cho các trường hợp: cầu vãng sinh, chôn cất người chết, xây mộ, cúng thí cho Quỷ đói… cũng hay trừ diệt bệnh chướng, quỷ quấy phá, bệnh đau mắt, trùng độc gây hại trong đời hiện tại.
3/. Nếu có chúng sinh tùy theo nơi chốn, được nghe Đại Quán Đỉnh Quang Chân Ngôn này thì tất cả các tội mười ác, năm nghịch, bốn nặng trong quá khứ được trừ diệt hết.
4/. Y theo Nghi Quỹ của Pháp này để tu Mật Pháp thì gọi là Quang Minh Chân Ngôn Pháp. Pháp này chủ về diệt tội, trừ bệnh, ngưng dứt tai nạn… đều là Pháp tu để diệt tội.
5/. Nếu có chúng sinh gây tạo đủ các tội: mười Ác, năm Nghịch, bốn nặng… giống như bụi nhỏ tràn đầy Thế Giới này. Khi thân hoại mệnh chung bị đọa vào các nẻo ác. Dùng Chân Ngôn đó gia trì vào đất, cát 108 biến rồi rải cho vong linh trong rừng Thi Đà (Śiṭavana), trên thi hài, hoặc rải trên mộ… gặp chỗ nào đều rải lên trên. Người đã chết ấy, nếu ở trong Địa Ngục, hoặc trong loài Quỷ đói, hoặc trong nẻo Tu La, hoặc mang thân Bàng sinh… dùng uy lực Thần Thông của Nhất Thiết Bất Không Như Lai Tỳ Lô Giá Na Như Lai Chân Thật Bản Nguyện Đại Quán Đỉnh Quang Chân Ngôn gia trì sức mạnh vào đất, cát … ngay lúc đó liền được ánh sáng chiếu vào thân sẽ trừ được các tội báo, buông bỏ thân đang chịu khổ, vãng sinh về quốc thổ Cực Lạc ở phương Tây, hoá sinh trong hoa sen cho đến Bồ Đề chẳng bị đọa lạc.
6/. Nếu tụng Chân Ngôn này một biến ắt tương đương với Công Đức đọc tụng trăm ức vô lượng Đà La Ni của các Kinh Điển Đại Thừa.
Trên mền ngoài có in bản chân ngôn Quang Minh lại có in bản Thập Cam Lộ và Đại Tùy Cầu Tức Đắc Đà La Ni. Công năng thật không thể nghĩ bàn. Có thể nói người được đắp chiếc mền này (nếu đúng như pháp) thì lợi ích vô cùng.
Thập Cam Lộ Đà La Ni là Chân Ngôn của A Di Đà Như Lai (Amitābhatathāgata: Vô Lượng Quang Như Lai, hay Amitāyus-tathāgata: Vô Lượng Thọ Như Lai). Lại gọi là Thập Cam Lộ Chân Ngôn, A Di Đà Đại Chú, Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sinh Tịnh Độ Đà La Ni, Vô Lượng Thọ Như Lai Căn Bản Đà La Ni, A Di Đà Đại Đà La Ni, A Di Đà Đại Thần Chú. Do trong Chú có mười câu A mật-lật đa (Amṛta) được dịch nghĩa là Cam Lộ nên lại xưng là Thập Cam Lộ Minh Đà La Ni này biểu thị cho Công Đức Nội Chứng của Đức Vô Lượng Thọ Như Lai (Amitāyus-tathāgata) hay giúp cho người trì tụng: đời này được an ổn, tiêu diệt các tội chướng; sau khi chết được sinh về Thế Giới Cực Lạc (Sukha-vatī).
Vô Lượng Thọ Như Lai Đà La Ni này, vừa mới tụng một biến, liền diệt tội mười ác, bốn Trọng, năm Vô Gián trong thân. Tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt.
Nếu tỳ kheo (Bhikṣu), tỳ kheo ni (Bhikṣuni) phạm vào tội căn bản, tụng bảy biến xong, tức thời trở lại được Giới Phẩm thanh tịnh.
Tụng mãn một vạn biến đắc được Bất Phế Vong Bồ Đề Tâm Tam Ma Địa. Tâm Bồ Đề hiển hiện trong thân, sáng tròn trịa trắng tinh giống như mặt trăng trong sạch. Lúc mệnh chung thời nhìn thấy Đức Vô Lượng Thọ Như Lai cùng với vô lượng câu chi chúng Bồ Tát vây quanh, đi đến nghinh đón Hành Giả, an ủi Thân Tâm, liền sinh về Thế Giới Cực Lạc, Thượng Phẩm Thượng Sinh, chứng địa vị của Bồ Tát”.
“Tịnh độ Thập Yếu thứ tám, Bảo vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ, quyển hạ” ghi nhận là: “Trong kẻ ấy nếu có Nghiệp đời trước khiến cho Nguyện Hành có thiếu sót thì thường nên một lòng tụng Bạt Nhất Thiết Khinh Trọng Nghiệp Chướng Đắc Sinh Tịnh Độ Đà La Ni này. Nếu trì một biến liền diệt hết thảy tất cả nhóm tội năm nghịch, mười ác trong thân. Nếu trì mười vạn biến liền được Tăm Bồ Đề chẳng bỏ quên. Nếu trì hai vạn biến liền cảm được mầm Bồ Đề sinh. Nếu trì ba vạn biến thì Đức Phật A Di Đà thường trụ trên đỉnh đầu người ấy, quyết định sinh về Tịnh Thổ”
Đại Tùy Cầu Đà La Ni cũng là ý tưởng tất cả sự mong cầu đều được như nguyện, cho nên Chân Ngôn này có uy lực thỏa mãn mọi nguyện cầu thuộc về Thế Gian (tài phú, mạnh khỏe, sống sâu) và Xuất Thế Gian (cầu sinh về Tịnh Thổ, thành Phật). Công hiệu của Đại Tùy Cầu Chân Ngôn là:
1/. Thành tựu tất cả Chân Ngôn Pháp
2/. Hay diệt tội nặng cực ác khó điều phục
3/. Chiến đấu ở nơi nguy hiểm chẳng bị Oán Địch hủy hoại mà đều diệt hoại được kẻ địch, cuối cùng không có sợ hãi Oán Địch
4/. Hoại diệt được các Quỷ Mỵ: mạnh ác, hút Tinh Khí, Quỷ Mỵ thường hại hữu tình
5/. Chẳng bị các Pháp Chú Trớ gây hại, chẳng bị trúng Cổ Độc
6/. Hết thảy tai nạn về: nước, lửa, dao gậy, chiến tranh, sấm sét, mưa đá sương mù, gió mạnh bạo, mưa ác… đều được giải thoát
7/. Mọi sự cầu nguyện đều thành, tất cả ước nguyện thảy đều được như ý
8/. Nếu người nữ mang thai, trì Đà La Ni này đều hay khiến cho thai nhi bình yên, sinh nở được an vui
9/. Lời nói ra khiến người ưa thích nghe, đi đến chỗ nào đều nhận được sự cung kính
10/. Chẳng gặp mộng ác, ngủ nghỉ được an lành
11/. Giúp cho vong linh được sinh về cõi Trời
12/. Hay ngưng dứt được sự đấu tranh kiện tụng
13/. Hay trừ khử loài trùng gây hại cho nhà nông, khiến cho tất cả mầm lúa, hoa quả đều được tăng trưởng, có mùi thơm, vị ngon ngọt
14/. Khi khí hậu khô hạn nắng lâu dài, do uy lực của Đà La Ni này thời Long Vương cùng nhau vui vẻ, tuôn mưa kịp thời giúp cho trăm họ
15/. Cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái
16/. Hay lìa mọi loại Ma Nghiệp, hay đập tan tất cả Ma Chúng, hay chặt đứt sự ngăn trở của tất cả Ma La (Māra: loài Ma)
17/. Hay chặt đứt tất cả Tập Khí
18/. Hay khiến cho chúng sinh có Tâm ác, khởi lên Tâm Đại Từ
19/. Hay ở tất cả nơi chốn được Đại Cúng Dường như Phật Đại Sư Lưỡng Túc Tôn
20/. Người ngày ngày trì tụng, được Đại Thông Tuệ, Đại Uy Lực, Đại Cần Dũng, Đại Biện Tài thành tựu
21/. Sẽ khiến cho Tinh Khí nhập vào thân, tăng thêm uy lực, thân tâm thường được vui thích
22/. Nếu có loài Bàng Sinh, cầm thú mà lỗ tai được nghe qua Đà La Ni này thì nhóm ấy thảy đều đối với Vô Thượng Bồ Đề, vĩnh viễn chẳng thoái lùi
23/. Chứng Đại Niết Bàn
Kinh Phật nói Đại Tùy Cầu Đà La Ni dạy rằng: “Nếu như có người nào nghe thấy Chú này, liền hay tiêu diệt tội chướng. Nếu thọ trì đọc tụng, thì lửa chẳng thể thiêu đốt, đao chẳng thể gây thương tích, chất độc chẳng thể hại, hay được sự hộ thủ của tất cả Hộ Pháp. Nếu viết chép Chú này đeo ở trên cánh tay và ở dưới cổ, thì người này thường hay được sự gia trì của tất cả Như Lai”.
Lại trong Phật nói Kinh Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni Thần Chú ghi nhận Công Đức của Đại Tùy Cầu Bồ Tát Thần Chú này là: “Đại Tùy Cầu này tức là Đại Tự Tại Đà La Ni Thần Chú, hay ban cho chúng sinh sự an vui tối thắng, chẳng bị tất cả Dạ Xoa, La Sát và các bệnh điên loạn, cùi hủi, Quỷ đói, Quỷ Tắc Kiến Đà, các hàng Quỷ Thần gây não hại; cũng chẳng bị bệnh nóng lạnh xâm tổn. Nơi cư ngụ luôn luôn được thù thắng, chẳng bị sự xâm hại về chiến đấu oán thù, lại hay đập tan kẻ địch, chú trớ yểm đảo chẳng có thể làm hại, tội của nghiệp trước thảy đều tiêu diệt, chất độc chẳng thể hại, lửa chẳng thể thiêu đốt, đao chẳng thể gây thương tích, nước chẳng thể cuốn chìm, chẳng bị sấm chớp, sét đánh, gió ác, mưa bão không đúng thời…. gây tổn hại. Nếu có người Thọ Trì Thần Chú này thì nơi cư ngụ được thù thắng. Nếu có thể viết chép rồi đeo trên cổ hoặc cột trên cánh tay thì người đó hay thành tất cả việc lành thanh tịnh tối thắng. Thường được Chư Thiên Long Vương ủng hộ. Lại được Chư Phật, Bồ Tát nghĩ nhớ, các Thiên Thần Chúng luôn luôn theo ủng hộ. Nếu có người nữ Thọ Trì Thần Chú này sẽ có thế lực lớn, thường sinh con trai, Thọ Trì lúc mang thai thì thai được an ổn, khi sinh sản được an vui, không có các bệnh tật. Mọi tội tiêu diệt nhất định không còn nghi ngờ gì, do lực Phước Đức mà tiền của, lúa gạo được tăng trưởng. Lời bảo ban khiến cho người đều tin nhận, thường được tất cả điều cung kính”.
Công hiệu của Đại Tùy Cầu Tức Đắc Đà La Ni có thể nói là không có điều gì chẳng thể làm được: Thế Gian với Xuất Thế Gian đều có công hiệu rất lớn. Trong nhiều loại Mật Chú là điều hiếm có. Nhân đây, Đại Tùy Cầu rất thích hợp với Cư Sĩ tại gia.
Mền Quang Minh thuộc về Mật Tạng. Người muốn sử dụng mền này để đạt kết quả phải có đủ thiện duyên gặp bậc thiện tri thức, thật tu thật chứng. Trì chú vào chiếc mền và đắp cho người lúc lâm chung thì oan gia nghiệp chướng của họ không thể đến gần nhiễu hại được. Người ấy, được oai thần của chú bảo hộ, giúp thân tâm không bị điên đảo giữ được chánh niệm và không bị đọa vào ba đường ác. Quan trọng là người đó có đủ duyên gặp được bậc thiện tri thức như vậy hay không mà thôi, không phải là chỗ nghi vấn về công năng, diệu dụng của mền Quang Minh.
Có rất ít người không hiểu, chỉ biết mền quang minh dành để đắp cho người chết, nhưng không biết người sống cũng có thể làm mền đắp để tiêu trừ nghiệp chướng, trị tà, bệnh tật (bệnh nghiệp) v.v….rất công dụng. Tuy nhiên, người đó cần phải trì chú vào mền thường xuyên thì công năng của chú mới công hiệu.
Những trẻ em khó nuôi, nhiều bệnh tật, thường khóc đêm v.v… cũng có thể dùng mền Quang minh đắp thì sẽ không còn khóc đêm, bệnh tật cũng tiêu trừ (nếu bệnh đó là do bệnh nghiệp gây ra). Người sống nếu thường hay mắc bệnh, hoặc khi ngủ thường thấy những điềm chiêm bao không lành cũng nên đắp mền quang minh. Thì những thứ bệnh nghiệp và ác mộng sẽ không còn nữa. Người đắp mền Quang Minh, ma quỷ và oan gia trái chủ không thể đến gần được. Đó đều là do công năng oai thần của các bộ chú trên mền Quang Minh. Có người tin cũng được, không tin cũng chẳng sao, nhưng đừng hủy báng (vì trong Phật giáo có vô lượng pháp cho mình chọn để tu hành). Trong Đại Tạng Kinh đức Phật dạy công năng và oai thần của chân ngôn thật chẳng thể nghĩ bàn và đó chẳng phải là cảnh giới của phàm phu chúng ta có thể hiểu được. Nếu muốn biết tường tận, không có cách nào hay hơn là dùng chánh tín đi vào, đọc Đại tạng Kinh để tự mình y giáo phụng hành lợi ích cho mình và người.
Thời Phật còn tại thế có một người giàu có, nhưng không biết bố thí làm thiện, thường làm các việc ác. Khi ông mất, vì nghiệp ác nhiều nên thần thức bị đọa vào địa ngục. Sau khi đã xét xử và đưa ông đi thọ hình, thì không sao phạt được ông ta. Dùng lửa thì lửa tắt, dùng nước thì khô, dùng dao kiếm thì gãy. Bấy giờ quỷ cai ngục tâu lên vua Diêm La, nhưng vua Diêm La cũng không biết nguyên nhân bèn tâu lên vua trời Đế Thích (người đời thường gọi là Thượng Đế chính là vị vua trời này, nhưng trong Phật pháp vua trời Đế Thích chỉ là hộ Pháp). Đế Thích dùng Thiên Nhãn quan sát cũng không biết được nguyên do. Lúc đó, vua trời Đế Thích và mười Điện vua Diêm La đến Linh Sơn gặp đức Phật thưa hỏi rằng: ” Bạch đức Thế Tôn! Có một người khi còn sống thường hay làm các việc ác, nên sau khi chết bị đọa vào địa ngục. Nhưng không biết nguyên do là sao mà không cách nào thi hành hình phạt đối với ông, cúi xin đức Thế Tôn chỉ dạy”.
Đức Phật bảo với vua trời Đế Thích rằng; sở dĩ hình phạt không thể đến gần được ông ấy là vì khi lúc đưa xác ông đi thiêu, xác ông được khiêng ngang một cổ tháp. Trong đó có thờ Chân Ngôn Đại Tùy Cầu Tức Đắc, vì cổ tháp lâu năm bị hư mụt, khi xác ông khiêng ngang, một cơn gió thổi đến, làm cho vải có khắc chú Đại Tùy Cầu rã rách và rơi xuống xác của ông một chữ. Do công năng oai thần của Chú Đại Tùy Cầu cho nên ông ta sẽ không bị thọ lãnh ác báo trong tam đồ.
Qua câu chuyện trên, người học Phật chân chánh cũng phải tìm hiểu đúng nghĩa và thực hành đúng Pháp để lợi ích cho mình và chúng sinh. Sự hiểu biết của chúng ta ví như giọt nước trong biển cả mênh mông, đối với Đại Tạng Kinh. Phật pháp thật nhiệm mầu, không thể nghĩ bàn được, dù một chữ một câu, nếu biết áp dụng thực hành đúng pháp thì lợi ích thật là lớn thay.
Chúc bạn luôn tinh tấn.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Trân trọng,
tangthuphathoc.net
Ghi chú: Đại Tùy Cầu Bồ Tát tên phạn là Mahā-pratisāraḥ, dịch âm là Ma Ha Bát La Để Tát Lạc, tức Đại Tùy Cầu Bồ Tát, lược xưng là Tùy Cầu Bồ Tát. Ngài là một Hóa Thân của đức Quán Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara-bodhisatva) và là một Tôn trong Quán Âm Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) của Mật Tạng Phật giáo.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Sáng nay mình đã đọc được hồi âm quý báu của bạn Mở Rộng Tâm Lượng nhưng vì phải vào làm nên tan ca mới gửi được lời cảm ơn trân trọng tới trang nhà Đường Về Cõi Tịnh và bạn Mở Rộng Tâm Lượng ạ 🙏🙏🙏 Mình sẽ chia sẻ cho bạn mình tham khảo và hy vọng bạn ấy hiểu và hành đúng Chánh Pháp để chú chó cũng được phần lợi lạc .
NAM MÔ CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT MÀ HA TÁT 🙏🙏🙏
Con có câu hỏi xin được giải đáp ạ: Con muốn phóng sanh, nhưng nhiều khi tâm lại nghĩ, mình phóng sanh cá lớn xuống sông có khi nào nó sẽ ăn các cá nhỏ hay tép, cua nhỏ. Ngựoc lại phóng sanh cá nhớ thì nó sẽ làm mồi cho cá lớn dưới sông… Như vậy con có bị tội gián tiếp giết các con vật nhỏ đã bị những con cá lớn con phóng sanh ăn không, và ngược lại con có mang tội không khi làm cho các con cá nhỏ bị ăn. Câu hỏi con nếu có đi sai nhân quả con xin sám hối, vì ngu ngốc mà con phải hỏi ạ. Con rất chờ đợi câu trả lời dạy dỗ cho con hiểu biết thêm ạ.
Chào bạn Sơn
Thật sự thì nên học kỹ về giới sát sanh, có thể tham khảo đọc luật của các vị Tỳ-kheo thì sẽ rõ như thế nào là sát sanh chứ đừng nghĩ nhiều về vấn đề gián tiếp giết bởi nếu nghĩ quá nhiều về việc gián tiếp giết thì chắc nghỉ ăn uống và hít thở luôn quá. Do ăn rau củ thì người nông dân cũng xịt thuốc diệt sâu bọ côn trùng, rồi khi ăn cơm thì lúc nông dân cày cấy trồng lúa cũng chết rất nhiều giun. Theo luật do Phật chế định thì khi mình phạm phải 5 chi phần này, tức là có đủ 5 chi phần thì sẽ phạm tội sát sanh, 5 chi phần đó là:
-Chúng sinh đó là chúng sinh có sự sống
-Mình biết rõ chúng sinh đó còn sống
-Có ý muốn giết nó
-Cố ý, ra sức giết nó
-Chúng sanh đó chết do sự cố ý của mình
Còn việc chúng nó ăn nuốt lẫn nhau thì phải quán chiếu sâu về luật nhân quả, vì nghiệp của những chúng sinh đó nên nó ăn nuốt lẫn nhau, bản thân chúng ta không thể tác động để khiến chúng nó nghỉ ăn được nên chỉ có thể quan sát rồi quán chiếu về nhân duyên từ đó nhìn thấy dòng nghiệp lôi kéo chúng như thế nào. Nhờ vậy mà sinh tâm chán sợ sanh tử nỗ lực tu hành các Ba la mật để thoát dòng sanh tử.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Dạ cảm ơn chú Đạt Châu và admin trang nhiều ạ, như chú nói do con suy nghĩ quá nhiều rồi tự lo lắng ạ. Con rất vui và an tâm nhờ câu trả lời của chú ạ, con sẽ nỗ lực niệm Phật và phóng sanh ạ. Nam mô A Di Dà Phật.