Ðịnh Kỳ Tinh Tấn Niệm Phật (Phần Cuối)

Ðịnh Kỳ Tinh Tấn Niệm Phật (Phần Cuối)2.4. Trích lục Quy Thức Nhất Tâm Tinh Tấn Niệm Phật Thất của đại sư Triệt Lưu

Chọn lấy chỗ thanh tịnh, rộng rãi làm Phật đường niệm Phật. Trong đó, thờ thánh tượng Di Ðà, treo các hoa phan, thắp đèn, đốt hương suốt bảy ngày chẳng ngớt. Chỉ dùng hương, hoa cúng dường, chẳng dùng đến thức ăn, trái cây, ca vịnh, nhạc khí v.v…

Mỗi phía tượng Phật bày một cái bàn dài, cũng dùng lư hương, đồ thờ bày biện trang nghiêm. Phía trước mỗi bàn đặt bốn cái tọa ỷ (2). Ngay chính giữa trước mặt tượng Phật đặt một cái bàn dài xếp ngang với hai bàn hai bên.

Mỗi bàn cách nhau chừng hai thước (thước Tàu). Trên bàn bày một đạo sớ văn, một lư hương lớn, hoa, đèn, đồ thờ sao cho tương xứng. Phía trước bàn đặt bốn cái bồ đoàn. Hai bên, chỗ gần vách tường, nếu không có thiền sàng thì bày nhiều tòa ngồi để những người tham dự theo ban của mình lui ra ngồi đó.

Những bạn đồng tu thanh tịnh hạn định mười hai người, chia làm ba ban, mỗi ban gồm bốn người. Một người dẫn đầu cầm dẫn khánh chịu trách nhiệm nhớ số niệm Phật hiệu được trì, lấy ngàn câu niệm làm mức.

Người kế đó giữ mõ nhỏ, hai người còn lại chịu trách nhiệm tuần sát, thấy người nào trong ban đang niệm tụng mà hôn trầm thì cảnh tỉnh. Ban ở chính giữa hướng thẳng về đức Phật là ban thứ nhất. Người thứ nhất ngồi gần phía Tây là trưởng ban, chính là Thất Chủ.

Ban bên phải ngồi hướng mặt về phía Ðông là ban thứ hai, người ngồi gần phía trên nhất là trưởng ban. Ban bên trái ngồi hướng về Tây là ban thứ ba, người ngồi gần phía dưới nhất là trưởng ban. Trên hai cái bàn dài thượng, hạ đặt trước đức Phật, mỗi bàn đều đặt một bộ dẫn khánh và mõ nhỏ, dùng xong lại đặt trên bàn.

Việc sắp đặt điện đường dành cho Phật thất nên chuẩn bị chu đáo ngay từ ngày hôm trước ngày khai thất. Tăng, tục tham dự Phật thất cũng nên tụ tập đến từ ngày hôm trước. Tắm gội xong nên thỉnh Chủ Thất Sư phân ban, quy định chỗ ngồi, chỉ dạy diễn tập: mỗi ban nhiễu Phật niệm trăm câu, lại trở về chỗ đổi ban.

Trong khi đang đi nhiễu, đột nhiên đánh sáu tiếng mõ lớn để thay cho tiếng bang (3) báo giờ ăn. Ba ban đúng pháp ra khỏi Phật đường, đến trai đường nhiễu niệm, ngưng mõ, đánh tiếp mộc bản.

Ðánh mộc bản xong liền niệm Phật, trở về Phật đường đi xoay vòng trở về chỗ mình ngồi. Chỉ dạy minh bạch mỗi việc cho đại chúng hiểu rành rẽ vì trong khi kết thất cấm nói, lại chẳng chỉ vẽ nên cần phải diễn tập trước. Tập xong, ai nấy tự chí thành lễ Phật, cầu Phật gia bị khiến cho mọi việc trong bảy ngày bảy đêm đều được hoàn thành, chẳng bị nội ma ngoại chướng khởi lên. Xong xuôi nên đi nghỉ sớm để khỏi đến nỗi bị mệt nhọc.

Ngày thứ nhất, canh năm, gióng chuông báo thức, đại chúng thức dậy rửa ráy, súc miệng xong xuôi, dùng cháo lót dạ, lên Phật đường. Chủ Thất Sư gõ dẫn khánh, lễ Phật ba lạy, mọi người đứng yên vào chỗ mình, cử bài Hương Tán, tụng kinh A Di Ðà, tiếng tụng kinh nên hòa hoãn. Tụng chú Vãng Sanh ba biến, xướng bài kệ Tán Phật rồi xưng danh hiệu Phật. Ban ngồi chính giữa đánh hai tiếng khánh, xá rồi nhiễu Phật.

Hai ban tả hữu ngồi ngay ngắn niệm thầm theo. Kẻ hôn trầm tán loạn nặng nề thì khẽ động môi răng để khỏi bị quên lửng, gián đoạn hay bị lạc vào tánh hôn trầm vô ký. Người tinh thần sáng sủa thì nên nhắm mắt tịnh lự, nhất tâm duyên theo Phật khiến cho Phật hiệu trong tâm rõ ràng như được xâu thành chuỗi, chẳng gián đoạn, chẳng tạp.

Ban đầu tiên nhiễu Phật xong, đứng xuống phía dưới (4), niệm đến chữ Ðà đánh một tiếng khánh. Ban thứ hai liền từ chỗ ngồi đứng dậy, thong thả ra khỏi vị trí, đứng thành một hàng bên bàn Phật. Ban đầu tiên lại gõ một tiếng khánh; sau bốn năm câu niệm Phật, lại gõ liền hai tiếng khánh ở chữ Ðà và chữ Phật, ngừng niệm, hướng về Phật bái xá, rồi ngồi vào các tòa trống ở bên phải.

Ban thứ hai liền niệm Phật tiếp theo, bái xá, đi nhiễu giống như trên. Niệm Phật xong lại đứng ở phía trên, gõ ba tiếng khánh. Ban cuối cùng liền đứng dậy, ra khỏi chỗ ngồi, đứng vào phía dưới niệm Phật tiếp, đi nhiễu giống hệt như cách thức của ban trước. Ban thứ hai liền lui về ngồi nơi các tòa trống ở bên trái, im lặng duyên theo Phật hiệu.

Ba ban niệm Phật như thế, hết lượt lại trở lại từ đầu; từ sáng đến tối tiếng niệm Phật chẳng dứt. Mỗi phen xưng niệm một ngàn câu xong lại mặc niệm hai ngàn câu, đi kinh hành niệm Phật ngàn câu, an tọa niệm Phật một ngàn câu để thân, miệng chẳng mệt mỏi, sự gắng sức và nhàn nhã được quân bình.

Hễ nhiễu Phật xong, thấy không có mõ nhỏ đặt ở cạnh bàn mới được trở về chỗ ngồi để thứ lớp hoàn toàn không bị lầm lạc. Ngoài mười hai người ra, chẳng cần biết là tăng, tục nhiều ít cũng chia thành ba ban, đi thì cùng đi, ngồi thì cùng ngồi.

Trai đường bày biện theo vòng tròn, ba mặt kê bàn nối nhau, chỉ trừ phương dưới và chính giữa là để trống đôi chút để đi lại. Bốn phía chỗ gần tường đều kê sao cho đi nhiễu được. Ngoài ba bữa cháo ra, trước ngọ ăn thêm một bữa; chỉ có hai bát thức ăn, hai người ăn chung. Mỗi bữa dùng cơm xong, đánh sáu tiếng bang (biểu thị Nam Mô A Di Ðà Phật).

Trong Phật đường khi nghe tiếng bang thì bất luận ban nào [đang xưng niệm] cũng [tiếp tục] nhiễu niệm như thường. Ðến bàn đặt sớ, trưởng ban đặt xâu chuỗi lên bàn, đánh dẫn khánh hai tiếng, bái xá.

Hai ban tả hữu đứng dậy, đồng thanh xưng niệm. Trưởng ban đánh dẫn khánh, theo lối đi chính giữa hướng về Phật đi nhiễu, theo đường giữa ra khỏi Phật đường. Ðợi cho tất cả tăng, tục thuộc ban ấy đi hết, hai ban còn lại mới đi theo, chẳng được đi loạn lên.

Ðến trai đường, hữu nhiễu một vòng đợi cho ban cuối cùng đến trai đường xong, trưởng ban liền đánh một tiếng khánh, dứt mõ, ngưng niệm Phật, ai nấy tùy chỗ mình đã đi đến đâu mà ngồi vào đó, chẳng được đùn đẩy kẻ trước người sau, hoặc tách ra khỏi vị trí. Ngồi đâu ăn ở đó, chẳng dùng đến các pháp tắc bái xá, niệm tụng, Xuất Sanh v.v…

Cạnh đó, treo một tấm bản và dùi, sai một Sa Di đứng sẵn cạnh đó, chờ khi tiếng mõ nhỏ vừa dứt, liền đánh bản niệm Phật, mỗi tiếng đánh hai tiếng bản. Ðại chúng trong lúc ăn nhất tâm duyên theo Phật hiệu, chẳng được phóng dật trong khoảnh khắc.

Ăn xong, trưởng ban đánh một tiếng khánh ngay chữ Nam, Sa Di liền đánh liền hai tiếng bản ngay chữ Ðà Phật để kết thúc. Ðại chúng ra khỏi chỗ cũng chẳng bái xá, liền cất tiếng niệm Phật hữu nhiễu trở về Phật đường, nhất loạt theo như thứ tự trước. Trưởng ban đến đứng tại chỗ của mình, đánh hai tiếng khánh, bái xá, đặt khánh lên bàn, cầm lấy xâu chuỗi nhiễu Phật, các ban khác trở về ngồi chỗ cũ.

Những người thuộc tả ban ngoảnh mặt về Tây nên đi thuận chiều đến bên bàn, từ vị trí cuối mà tiến lên, đừng đi xộc thẳng vào, đừng đi ngược chiều. Phàm khi trở về chỗ hay lúc xuất ban và người có việc phải ra vào đều nên đi an tường thong thả, chẳng được hấp tấp rảo bước.

Ðến đêm, trời vừa hoàng hôn, trên bàn đặt sớ cũng thắp đuốc lớn. Từ đấy trở đi, mỗi ban hai lượt niệm Phật sáu ngàn tiếng; đợi đến lúc ban cuối đi nhiễu niệm Phật, Thất Chủ ra khỏi chỗ mình, đánh một tiếng khánh.

Ðại chúng cùng đứng dậy đồng thanh nhiễu niệm. Ước chừng mười vòng xong, Thất Chủ đứng ngay chính giữa ở phương dưới, hướng về Phật, đánh ba tiếng khánh, gõ dồn mõ nhỏ một hồi, ngưng niệm Phật. Ðại chúng cùng hướng về Phật, đánh dẫn khánh, cùng niệm bài phát nguyện như sau:

Ðệ tử chúng con chí tâm phát nguyện:

Nguyện lúc lâm chung tâm chẳng loạn

Chánh niệm sanh thẳng về An Dưỡng

Gặp gỡ Di Ðà cùng thánh chúng

Tu hành Thập Ðịa vui thường hằng

Ba chữ cuối đánh thong thả ba tiếng khánh, lễ Phật ba lạy, trở về “đơn” để ngủ. Nên gìn giữ ba nghiệp, ngủ trong chánh niệm, chẳng được làm chuyện khác, nói gì khác, khởi lên tạp tưởng khác. Cũng chẳng được lễ vị Phật nào khác, tụng kinh, chú khác, dù có hằng khóa trọn đời chẳng khuyết cũng đều đình chỉ, sau bảy ngày sẽ hành trì bù lại. Vì nếu để gián đoạn, xen tạp thì còn đáng được gọi là bảy ngày trì danh nhất tâm bất loạn nữa ư?

Sau khi đại chúng đã ngủ, lúc hai cây quan hương sắp tàn, vị Hương Ðăng Sư (người trông coi nhang đèn) nên bảo nhà bếp sắp sẵn nước rửa mặt, cháo lót dạ, rồi đánh chuông báo thức. Từ đấy, trong sáu ngày sau, vào Phật đường lễ Phật xong, liền đọc ngay bài Tán Phật, chẳng tụng kinh chú, những điều khác đều giống như ngày đầu tiên.

Trong kỳ kết thất, nên thỉnh hai người làm Hộ Thất Sư để khuyên tăng, tục tùy hỷ chớ vào Phật đường, ngoại trừ người chuyên vì niệm Phật mà đến bèn dẫn vào lễ Phật ba lạy, ghép vào ban đang nhiễu niệm, hoặc ghép vào hai ban tả hữu đợi đến phiên, chẳng được xúm xít trò chuyện. Nếu kỳ hạn chưa mãn mà đã muốn đi thì lễ Phật đi ra, chẳng cần phải từ biệt đại chúng. Tăng, tục đã đến trước lúc kết thất, phát nguyện dự trọn đủ bảy ngày thì phải dự hết một kỳ, chẳng theo lệ như người tùy hỷ.

Nếu như người tuổi tác có bệnh, sức khó gắng gượng nổi thì có thể ngầm báo với Hộ Thất Sư, xin viết thiếp chuyển đạt cho Thất Chủ, hoặc lúc đi kinh hành thì ngồi một chốc, hoặc đêm xuống đi ngủ sớm, đó là phương tiện phá cách vậy.

Kế đó, cắt đặt một người làm hương đăng, trông nom hương, lửa, đèn đuốc, nến lụn thì cắt bấc, hương hết thì thắp hương mới; khi đại chúng phó trai thì giữ Phật đường chẳng ra, khi đại chúng ngủ nghỉ thì trông hương định giờ ngủ. Cần phải sắp đặt bậc lão thành vào vai trò này. Nếu mệt mỏi thì có thể cùng Hộ Thất Sư chia phiên ngủ nghỉ, chẳng được để lỡ việc khiến đại chúng bị lầm lạc.

Hai người hành giả lo liệu trà nước, tắm rửa v.v… Trước giờ ngọ dọn trà hai lần, sau giờ ngọ chẳng kể mấy lần, đêm xuống lại dọn trà một lần. Mỗi khi dọn trà xong, liền thu lấy chén tách rửa sạch, đợi đến khi ban nhiễu niệm ngồi yên lại châm thêm. Phàm là chậu, nước, giặt rửa, nếu đại chúng cần đến đều nên tận tâm sắp đặt. Hộ Thất Sư cũng tùy thời xem xét, đừng để thiếu sót.

Ngày mãn thất, đêm xuống, niệm Phật sáu ngàn câu xong, đợi sau khi ban cuối cùng đã niệm Phật tiếp theo, Chủ Thất Sư như thường lệ gõ khánh; ba ban cùng đứng dậy, nhiễu niệm năm trăm câu Phật hiệu. Chủ Thất Sư đứng ở đầu phía Ðông bàn Phật, hướng về phía Phật, gõ một tiếng chuông gia trì (5), đại chúng cùng hướng về Phật.

Ðánh đến tiếng chuông thứ ba thì chuông trống cùng trỗi, đánh mõ lớn, quỳ niệm Quán Âm, Thế Chí, Ðại Hải Chúng, mỗi danh hiệu mười lần như khóa tụng kinh tối thường lệ, tụng bài Tiểu Tịnh Ðộ Hồi Hướng Văn, lễ Phật mười hai lạy, Bồ Tát ba lạy, tam tự quy xong, liền đánh một tiếng chuông gia trì, đại chúng quay mặt hướng về lối đi chính giữa.

Thất Chủ Sư đến chính giữa phương dưới, triển cụ (6), lễ Phật, trường quỳ (7). Ðại chúng niệm: “Nam Mô Ðại Thừa Thường Trụ Tam Bảo”. Vị Hộ Thất Sư tuyên sớ xong bèn đánh mõ nhỏ tụng chú Vãng Sanh để hóa sớ, chẳng nệ là bao nhiêu biến.

Tụng chú xong, niệm kệ phát nguyện, bái xá, trở về trước Phật, đại chúng cùng triển cụ, lễ ba lễ, xếp ngọa cụ lại, bái xá. Khánh đánh lên, đại chúng ra khỏi Phật đường, đến thất của vị Chủ Thất Sư lễ tạ. Chủ Thất Sư cùng đại chúng đến chỗ Hộ Thất Sư và chỗ các vị Chấp Sự Sư, đi vòng quanh liêu tạ từ xong, rồi trở lại Phật đường nhiễu lễ. Ðấy là xong một kỳ kết thất.

Nhận định:

Những điều nói ở đây thuộc về phép tắc kết thất. Phàm người tham gia đả thất trước đã có công phu thuần phục, gia công trong bảy ngày để hạn kỳ cầu chứng nên chẳng cần khai thị. Giảng dạy, khai thị làm cho phân tâm.

Ðạo tràng cộng tu quy củ nên tùy hỷ; huống hồ là để tu tập dần thì chẳng thể trách phạt nghiêm khắc, vì sợ nghiêm phạt sẽ khiến đồ chúng phiền nhiễu. Nếu được thắng duyên khó gặp thì phải nên nghiêm phạt mới hòng chế ngự được phóng dật, giúp cho thắng hạnh thành tựu. Ðã có quy thức nghiêm ngặt xin hãy theo đó châm chước mà làm.

2.5. Trích lục Cách Hạn Kỳ Cầu Chứng Bế Quan Chuyên Niệm của cư sĩ Vương Canh Tâm

Pháp chuyên niệm có năm điều trọng yếu, năm điều răn dè. Năm điều trọng yếu là:

a. Một là chọn cuộc đất: Nên chọn chỗ tùng lâm, cổ sát hoặc chọn lấy chỗ vườn rừng vắng vẻ là tốt nhất. Chỗ ấy phải xa cách chốn thị thành ồn náo. Tịnh thất để tu tập nên chọn lấy căn nhà biệt lập rộng hai gian làm chuẩn. Gian phía Tây để thờ Phật, nên treo hình Tây Phương Tam Thánh hướng mặt về phía Ðông hoặc thờ kim tượng A Di Ðà Phật.

Chỉ bày hương án, lư hương, bồ đoàn mỗi thứ một cái. Bày chỗ ngồi phải quay lưng về phía Ðông, hướng mặt về Tây. Trọn không bày thứ nào khác cốt là để tịnh tâm mục, dứt sạch ngoại duyên. Gian phía Ðông làm phòng ngủ, chỉ để giường, mền, gối, y phục cần dùng, bút, mực, giấy, nghiên, bộ đồ trà, những vật dụng vệ sinh, những thứ khác đều dẹp hết.

b. Hai là chọn người: Người phục dịch hộ quan ắt phải chọn lấy người chân thật, cần cù để khỏi phải lo quên sót. Nên dặn dò người đó tạ tuyệt hết thảy người ngoài chẳng cho tự tiện vào thất và cấm tuyệt sự huyên náo gần thất. Ðến giờ, người đó sẽ chuyển cơm nước, y phục, thay bô tiểu, quét tước, dọn dẹp v.v… Nếu có sự gì ngoài ý muốn thì nên viết vào giấy dặn dò. Người ấy trọn ngày chẳng được rời khỏi, chẳng được lúc siêng, lúc lười.

c. Ba là ước định sẵn: Trước khi bế quan, phải dặn trước người nhà và người hộ quan, nếu như cha, mẹ, sư trưởng hoặc tự mình nhiễm bệnh nguy ngập và những chuyện ngoài ý muốn cần phải xuất quan thì mới được gởi thư thỉnh cầu hành nhân xuất quan, còn những việc khác chẳng được vọng thỉnh. Phải đợi đến ngày hôm sau của ngày mãn hạn kỳ bế quan, mới viết giấy thỉnh xuất quan, ngõ hầu [hành giả] nhất tâm niệm Phật, không bận tâm tính đếm ngày tháng.

d. Bốn là khắc định kỳ hạn: Kẻ sơ học e có sai lạc, trước tiên hãy chọn thời hạn ngắn (tiểu kỳ) để tập, ít là mười ngày, nhiều là hai mươi, ba mươi ngày chẳng hạn. Tu tập thuần thục thì mới chọn đại kỳ, nên lấy 120 ngày làm định kỳ. Mùa Xuân, mùa Hạ lấy tháng Giêng, Hai, Ba, Tư hoặc Hai, Ba, Tư, Năm làm hạn; Thu, Ðông thì lấy tháng Bảy, Tám, Chín hoặc Tám, Chín Mười, Mười Một làm hạn để tránh bị lạnh quá, nóng quá, khỏi phải phiền đến áo xống, lò ấp…

Ðấy là vì hạng trung hạ mà nói, còn bậc thượng căn cầu đạo, chẳng đoái thân mạng, thây kệ nóng lạnh, dũng mãnh tấn tu, quyết không thối đọa, lấy chứng ngộ ngay trong hiện đời làm hạn thì chẳng bị những điều trên hạn chế.

e. Năm là nghi quỹ:

e.1. Một là hồi hướng phát nguyện:

Ngày đầu tiên nhập quan, nên dùng giấy vàng trang trọng chép nguyện văn, đốt hương, lễ Phật như nghi thức thường ngày xong, tụng nguyện văn một biến, rồi đốt trước đức Phật, lui xuống ngồi niệm Phật. Từ đấy, trong vòng 120 ngày, chỉ chuyên niệm bốn chữ danh hiệu A Di Ðà Phật, chẳng phải mất công nghĩ đến sự gì khác, niệm mãi cho đến ngày xuất quan mới thôi.

Nguyện văn thì có bài Tây Phương Phát Nguyện Văn của đại sư Vân Thê, chỉ lược bỏ chín chữ “nguyện thiền quán chi trung, mộng mị chi tế”, thêm vào: “Nguyện bách nhị thập quan kỳ chi nội, kính hoạch nhất tâm, toại chứng tam muội” (Nguyện trong kỳ hạn bế quan 120 ngày, mau đạt nhất tâm, liền chứng tam muội). Nếu là người chẳng thông văn nghĩa thì chỉ lễ Phật thầm nguyện, chỉ cầu nhất tâm bất loạn và tận mặt thấy Phật, bất tất phải chấp nhặt vào nguyện văn.

e.2. Hai là chấp trì chẳng mất:

Miệng chỉ niệm tụng, tụng chẳng ngớt. Tâm chỉ nhớ Phật, nhớ chẳng ngơi. Tai chỉ nghe tiếng Phật hiệu, nghe chẳng ngớt. Lúc uống ăn, đi vệ sinh tuy miệng chẳng niệm Phật được nhưng tâm nên nhớ Phật. Lúc nằm cũng thế, khi ngủ cũng vậy, tỉnh dậy lại tiếp tục. Ðấy là pháp nhất định để chuyên niệm. Miệng chẳng niệm Phật là ngoại đoạn, tâm chẳng nhớ Phật là nội đoạn. Ngoại đoạn còn có lúc bất đắc dĩ, chứ như nội đoạn thì là tâm đã chẳng đặt nơi Phật, còn làm sao chuyên niệm được?

Trong Phật thất chỉ có mình hành nhân được vào, ngồi xếp bằng hay ngồi bình thường đều được, chẳng được nghiêng ngả, thiếu cung kính. Hễ mệt liền đứng lên đi kinh hành, nên bước đi thong thả an tường. Chẳng được mặc áo ngắn. Ðêm nằm có thể cởi áo dài, nhưng chẳng được cởi bỏ áo trong. Dậy sớm thì thức lúc canh năm, ngủ trễ thì thức lúc rạng sáng. Người ngủ nhiều có thể đi ngủ sớm chẳng ngại gì. Chẳng được dậy trễ, ngủ đến sáng bạch.

Trước lúc nhập quan nên tắm rửa, thay áo. Nhập quan rồi chẳng được tắm nữa, khiến việc tu tập bị bỏ phế; chẳng được đọc sách, viết lách, hoặc lần lữa nơi phòng ngủ ở phía ngoài. Sáng dậy, lúc vào Phật đường, lễ Phật một lượt; những lúc khác lễ Phật tuy không hạn định, nhưng đều chẳng đốt hương, cũng chẳng cầm chuỗi để nhớ số, chỉ đến khi mãn kỳ kết thất mới đốt hương lễ Phật mà lui ra.

* Năm điều răn dè là:

Sau khi nhập quan, một là chẳng được nói; miệng này ngoài chuyện niệm Phật chẳng được nói chuyện gì khác. Hai là bỏ các sự; thân này ngoài việc niệm Phật, chẳng được lo liệu các việc khác. Ba là trì trai; ăn thuần đồ chay, chẳng được xen tạp tí xíu đồ mặn, rượu chè nào. Bốn là tạ khách; ngoài người hầu, chẳng được gặp một người khách nào. Năm là phòng ngừa thối đọa: ngoại trừ khi cha, mẹ, sư trưởng và tự thân mắc bệnh nguy ngập, hoặc gặp chuyện ngoài ý muốn, chẳng được vô cớ xuất quan.

Năm điều trọng yếu, năm điều răn dè trên đây gộp thành mười pháp chuyên niệm, là bí quyết chân chánh của chân tu thực chứng Niệm Phật Tam Muội. Một kỳ chưa chứng thì có thể tu tiếp kỳ khác. Nếu thật sự có thể trọn đời chẳng lười nhác ắt sẽ có ngày được chứng ngay trong hiện tại.

Nhận định:

Nếu chiếu theo pháp tu Phật thất nói ở phần trên tu bảy ngày xong lại tu tiếp bảy ngày nữa vẫn chưa chứng nhất tâm bất loạn thì chỉ có cách bế quan chuyên niệm. Một kỳ chưa chứng thì tiếp tục tu một, hai, ba, hay bốn kỳ sao cho chứng được trong hiện đời mới thôi.

Ðại Sư Hoằng Nhất nói: “Bế quan nên chuyên niệm Phật, mỗi ngày nên lễ Phật chừng một ngàn lạy; vừa có công đức lại còn vận động thân thể. Lúc niệm Phật cũng nên kinh hành nhiều lượt; là vì trong quan vận động rất ít, thức ăn chẳng dễ tiêu hóa, cho nên phải lễ bái, kinh hành. Buổi tối có thể chẳng thắp đèn, chỉ thắp đèn lưu ly trước Phật là đủ.

Lúc bế quan, chẳng trò chuyện, chẳng tiếp khách, chẳng trao đổi tin tức. Nếu có chuyện rất quan trọng thì nên viết vào giấy giao cho người hộ quan. Hết thảy mọi sự đều đợi đến lúc xuất quan rồi mới lo toan đến”. Cũng nên tham khảo lời dạy này!

Trích: NIỆM PHẬT PHÁP YẾU
Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Đọc phần 1

Niệm Phật Như Pháp

Niệm Phật Như PhápĐã tu tịnh nghiệp (niệm Phật Pháp môn), phải giữ luân thường đạo lý, làm hết bổn phận với đạo với đời, dứt niệm tà, giữ lòng thành kính, trừ bỏ các điều ác, năng làm những việc lành, đừng giết hại gắng ăn chay, thương tiếc hộ trì mạng sống loài vật cũng là ý tưởng cao đẹp mang lại sự sống an lạc cho loài người, một lòng tin tưởng phát nguyện niêm Phật cầu vãng sanh Tây phương. Bên trong phải vì ông bà, cha mẹ, anh em, chị em, bên ngoài vì thân thích, bạn bè hàng xóm láng giềng, bá gia bá tánh, nhân vương làng nước, đem pháp môn niệm Phật Tịnh Độ này mà phụng hành và sách tấn, hướng dẫn chẳng luận người có tin tưởng hay không tin tưởng, chỉ hết sức mình khiến cho mọi người biết pháp môn mầu nhiệm này và thực hành đúng pháp mà thôi.

Người niệm Phật, nếu tấm lòng chân thiết, tự có thể nhờ từ lực của Phật, khiến cho khỏi tai nạn đau binh nước lửa. Dù có bị ức nghiệp sâu dày, hoặc trường hợp chuyển quả nặng địa ngục thành ra quả báo nhẹ nay mà ngẫu nhiên bị tai nạn ấy. Nếu lúc bình nhựt có lòng tín nguyện chơn thiết, quyết định lúc bấy giờ sẽ được nhờ Phật lực phóng quang tiếp dẫn.

Đã tín sâu, nguyện thiết, phải tu chánh hạnh niệm Phật, Sự tu trì đây tùy theo thân phận, hoàn cảnh, môi trường sống của mình mà lập, không nên chấp và cố định theo một phương thức nào như người không việc chi hệ lụy. Nên từ sớm mai tới buổi chiều, rồi chiều lại đến mai, lúc nào đi đứng, nằm ngồi, nói năng hoạc không nói chuyện phào…khi ăn cơm mặc áo cùng đại tiểu tiện, tất cả thời, thất cả chỗ, nhất nhất cử động đều giữ chính niệm một câu hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật” không rời tâm niệm. Nếu khi thân mình sạch sẽ, y phục chỉnh tề, chỗ ở tinh khiết, thì niệm thầm hay niệm ra tiếng thì được. Nhưng lúc ngủ, nghỉ lõa lồ tắm gội, đại tiểu tiện hoặc ở chỗ không sạch, chỉ được niệm thầm niệm không ra tiếng, niệm thầm công đức phước huệ vẫn đồng, nếu niệm ra tiếng thì có lỗi không cung kính. Chớ cho rằng lúc ấy không nên niệm, chỉ e niệm Phật không được mà thôi. Lại khi nằm nếu niệm ra tiếng, chẳng những không cung kính mà còn bị tổn hơi, chư liên hữu phải biết điều này.

Muốn cho tâm không luyến tiếc việc ngoài, chuyên niệm Nam Mô A Di Đà Phật, được quý nhứt, cũng không có phương pháp chi kỳ lạ, chỉ đừng quên việc sinh tử rình rập bên mình, thời điểm không biết xảy ra tự lúc nào. Phải nghĩ rằng: Ta từ trước tới nay tạo ra vô lượng vô biên nghiệp ác, như trong kinh nói: “Giả sử như nghiệp ác kia có hình tướng thì khắp mười phương hư không cũng chẳng dung chứa duyên đâu may mắn, nay được thân người được nghe Phật pháp. Nếu không một lòng chuyên niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương. Khi cái chết đến thình lình, chắc chắn phải bị đọa vào ác đạo,. Chừng ấy nếu đọa vào địa ngục thì bị non đao, rừng kiếm, lò lửa, vạc dầu, một ngày đêm sống chết đến vạn lần, sự khổ cùng cực không thể diễn tả. Nếu đọa vào ngạ quỷ thì thân hình bị xấu xa, bụng lớn như cái trống, cổ họng nhỏ như cây kim, thấy cơm nước thì những vật ấy hóa thành than lửa, chịu đói khát lăn lóc, khóc la thảm thiết trong vô lượng kiếp. Nếu đọa vào súc sanh, thì hoặc bị chở kéo nặng nề, hoặc bị người giết ăn thịt, hoặc bị người mạnh ăn nuốt người yếu thật kinh khủng chẳng lúc nào yên nghỉ, Chịu khổ như thế có khi vô lượng chư Phật ra đời mà vẫn còn xoay dần trong ác đạo, không được thoát ly. Nghĩ đến thân người mong manh, cái chết bất kỳ lúc nào cũng rình rập, nghĩ mình đời trước đời này đã tạo ra vô lượng nghiệp ác, nghĩ đến sự khổ tam đồ mà tĩnh ngộ sợ hãi, tất không còn ham luyến cảnh ảo huyền mộng du bên ngoài, công trình niệm Phật được chuyên nhứt.

Khi niệm Phật cần phải chí thành, hoặc có lúc trong tâm khởi ra bi cảm, đó là tướng căn lành phát hiện. Nhưng phải đề phòng đừng nên thường thường như thế, chẳng vậy thì bị loài ma bi thương nhập vào phàm gặp việc chi vừa ý cũng đừng quá vui mừng, vui mừng quá tất bị loài ma hoan hỉ ám nhập.

Khi niệm Phật, mí mắt nên sụp xuống một phần ba đôi mắt, nếu mở lớn thì tán loạn, nhắm mắt thì hôn trần ngủ gục, đừng nên quá dùng tinh thần, nếu dùng tinh thần quá hỏa khí sẽ bốc lên, làm cho nhức đầu choáng váng, hoặc mang các chứng bệnh : lên máu, đầu tê rần ngứa nhức, máu bầm tụ trên đỉnh đầu. Vậy phải điều hòa cho có chừng mực, vừa phải. Nếu thấy đầu óc nặng nề nóng bừng, bần thần dã dượi, phải trấn định tinh thần, lắng nghe, lắng tâm mà niệm Phật, hoặc chú tưởng nơi lòng bàn chân, thì hỏa khí sẽ hạ xuống.
Bịnh cùng ma phá, đều do túc nghiệp gây ra. Người nên chí thành khẩn thiết niệm Phật, thì bệnh tự an lành, ma tự xa lánh. Nếu lòng không thành khẩn mà còn khởi niệm tà dâm bất chánh, thì tâm người toàn thể đã sa vào nơi tối tăm, làm sao khỏi chiêu cảm loài ma đến khuấy rối.

Từ nay sau mỗi thời khóa tịnh niệm, người ta nên hồi hướng cầu nguyện cho oan gia, oan trái đời trước, khiến cho bọn kia nhờ công đức niệm Nam Mô A Di Đà Phật của người mà được giải thoát khổ, sanh về cõi lành.
Người niệm Phật nếu dụng công siêng năng tinh tấn, thì niệm sẽ thuần thuc quy nhứt, được cảm thông với Phật, tự có thể thấy cảnh lành, dù không thấy cũng không ngại. Nếu bỏ sự chuyên dụng công tu, công phu mà vội vàng gấp muốn được nhất tâm, được tương ứng, được thấy cảnh lành, thì vọng tưởng rối ren, tâm niệm cấu mong cố kết nơi lòng. Đây là chứng bệnh lớn lao nguy hiểm của người tu hành. Như thế lâu ngày, những oan gia đời trước nương theo vọng tưởng của hành nhơn, hóa làm thân Phật, hoa sen hoăc các cảnh tốt lạ, để mong báo oán. Lúc ấy tự mình đã không có chính kiến, toàn thể là khí phần của ma. Một khi thấy cảnh ấy tất sanh lòng hoan hỉ, ma nương theo đây mà vào tâm phủ làm cho hành nhơn, điên cuồng. Dù có Phật sống cũng không cứu được.

Người tu pháp môn niệm Phật không phải chỉ tu theo sự tuớng bên ngoài. mà con phải để ý trừ phiền não từ thô đến tế, từ trong đến ngoài và từ bên ngoài vào trong. Nếu phiền não bớt một phần thì công tu niệm Phật tăng thêm một phần, trái lại để phiền não tăng, tất công hạnh phải lui dần, làm cho đời tu tránh nghiệp phan duyên lôi kéo vào hố thẳm phiền não, rốt rồi tu không ra tu, đời không ra đời, uổng phí sanh kiếp làm người vô tích sự.

Khi người niệm Phật, trong tâm hôn muội, không phải do nơi sức yếu mà chính là nghiệp chướng xui nên. Vậy nên phải khẩn thiết chí thành mà niệm, nếu niệm không ra câu, thì tâm thường tưởng nhớ Phật, khi nào niệm được thì dùng miệng mà niệm, như thế lâu ngày nghiệp sẽ tiêu trừ. Từ khi bước vào đường tu, phải cẩn trọng đề ý đến tâm niệm hành vi, cử chỉ luôn phải giữ cho hiền hòa, thuần hậu, đối đãi với người như nước mát thanh lương, mới đủ duyên lành dự tăng luân nhập pháp lưu, Nếu chẳng được như vậy, lại huân tập thêm tánh gian tham, xảo quyệt, khắc kỷ hiểm độc, thì cũng như chót núi đá trơ vơ, mưa bao nhiêu cũng không đọng lại chút nào, dù loại cây cỏ chi cũng không sanh trưởng nỗi.

Giữ niệm một câu A Di Đà nhặt nhiệm nối nhau, thường nhớ, thường niệm. Khi những tâm tham lam bỏn sẻn hờn giận dâm dục, háo thắng kiêu mạn thoạt nổi lên, phải suy niệm : “Ta là người tu pháp niệm Phật, cầu học đạo giải thoát, không nên có tâm niệm như vậy” Nghĩ rồi liền trừ diệt đi. Như thế lâu lâu, những niệm lao thần tổn thân đều không do đâu mà khởi, sẽ được công đức không thể nghĩ bàn của Phật lực gia trì nơi thân tâm mình, dám đảm bảo trong mười ngày sẽ thấy đại hiệu, Nếu tu hành lôi thôi muốn được công hiệu. đó là khi mình, khi người, tuy cũng có công đức, nhưng muốn do đó mà lành bệnh, thì quyết không thể được.
Người tu tịnh nghiệp (tu niệm Phật) phàm việc chi cũng phải lấy lòng thành làm gốc, tu hành nếu không dùng tâm chí thành, làm sao được sự lợi ích lành bệnh dứt khổ?

Người tu tịnh nghiệp (tu niệm Phật) nếu có mảy may công đức lành đều đem hồi hướng vãng sanh. Như thế thì tất cả hành môn đều là trợ hạnh của Tịnh Độ. Lại phải phát lòng bồ đề, thề nguyện độ muôn loài, đem công đức mình tu hồi hướng cho bốn ân ba cõi cùng chúng sanh trong pháp giới. Làm như thế như đèn thêm dầu, như mạ được mưa, đã kết pháp duyên sâu cùng pháp giới chúng sanh, lại mau thành tựu thắng hạnh đại thừa của mình, Nếu chẳng hiểu nghĩa này, tất thành ra thấy chỗ cạn hẹp tư lợi của hàng phàm phu, nhị thừa tuy tu hạnh mầu căn quả rất thấp kém.

Người tu tịnh nghiệp (pháp môn niệm Phật) nên ăn chay trường, nếu chưa được như thế, thì giữ thập trai, lục trai, tứ trai, ít nhất là nhị trai để lần bỏ hẳn việc ăn uống các thứ thịt của chúng sanh, mới là hợp lý. Nhị trai là các ngày rằm (15 âl), mùng một; tứ trai là các ngày ba mươi (nếu tháng thiếu là hai mươi chín) mùng một, mười bốn, rằm (15 âl), lục trai là các ngày mùng tám, mười bốn, rằm (15 âl) hai mươi ba, hai mươi chín và ba mươi (nếu tháng thiếu là hai mươi tám, hai mươi chín) nếu thêm vào các ngày mùng một, mười tám, hai mươi bốn, hai mươi tám thì thành ngày thập trai. Những tháng thiếu nên ăn trước một ngày. Lại tháng giêng, tháng năm, tháng chín là ba trai ngoạt, nên ăn chay trường và làm các việc công đức. Dù chưa ăn chay được cũng nên mua thịt cá đã làm sẵn, chớ làm việc sát sinh trong nhà, những người đã quy y Tam Bảo rồi mà vẫn còn ăn mặn, nên tập lần không giết hại mạng, cướp mạng chúng sanh thượng cầm, hạ thú, loài thủy tộc nữa. Nếu mỗi ngày sát sinh thì cái nhà ấy trở thành lò sát sinh, là chỗ của oan hồn yểu tử tụ hội, không được an lành. Cho nên sát sanh trong nhà là đều rất cấm kỵ.

Người tu tịnh nghiệp (pháp môn niệm Phật) khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tây phương, Muốn cho cha mẹ khi lâm chung quyết định được vãng sanh, thì phải dặn trước người quyến thuộc về cách trợ niệm và chớ nên khóc lóc cùng bày vẽ những điều mê tín dị đoan vô ích. Lại lúc sinh thời phải vì cha mẹ giảng rõ sự lợi ích của Pháp môn niệm Phật khiến cho song thân thường niệm không quên. Thế thì cha mẹ chẳng những được lợi ích, mà quyến thuộc hiện tại hoặc con cháu đời sau cũng được ảnh hưởng giải thoát an lành. Về phương pháp trợ niệm khi lâm chung, không luận già trẻ đều phải làm đúng như thế.

Đối với những nữ sĩ tu pháp môn niệm Phật, hoặc không tu có gia đình, ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, đến bảo sanh viện không kịp thời, khi sắp sanh thường đau khổ không kham. Có khi vài ngày sanh không được, hoặc chết vì khó sanh. Có người tuy sanh được hưng lại bị huyết băng và nhiều bệnh nguy hiểm khác. Đứa con sinh ra thì bị các chứng, nạn kinh phong…cho nên người nữ lúc sinh sản, nên chí thành khẩn thiết niệm Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát. Khi niệm cần phải to tiếng, không nên niệm thầm, vì niệm thầm do lực kém, nên sức cảm ứng cũng kém. Lại trong lúc ấy sản phụ đang dùng sức sanh đứa bé, nếu niệm thầm thì bị ép nín hơi phải mang bệnh khác (Lời dạy của Đại Sư rất có khoa học). Nếu chí thành khẩn thiết mà niệm quyết không có sự đau đớn, khó sanh, huyết băng, đứa con sẽ khỏi bệnh kinh phong và các chứng nguy hiểm khác. Dù gặp trường hợp khó sanh, có nguy hiểm đến tánh mạng, sản phụ cùng những bà hộ sanh, cũng phải đồng to tiếng niệm Quán Thế Âm Bồ tát. Người quyến thuộc tuy ở nơi khác, đều phải vì sản phụ liền được yên ổn mà sanh. Kẻ ngoại đạo không rõ lý này, chấp chặc một việc cung kính, chẳng biết căn cứ theo sự mà luận lý, khiến cho mấy bà lão niệm Phật xem việc sanh sản là việc đáng sợ, cho đến dâu con của mình sanh cũng không dám qua săn sóc, huống chi là vì niệm Quan Âm? Nếu biết Bồ tát lấy sự cứu khổ làm lòng, lúc sanh sản tuy lõa lồ không sạch, nhưng dó là việc dĩ nhiên không phải tự ý buông lung, nên niệm đã không có tội lỗi, mà lại khiến cho sản phụ gieo trồng căn lành. Nghĩa này trong kinh Dược Sư đã có nói, không phải tự tôi đưa ra điều ức kiến riêng tư. Ấn Quang này chỉ là người đề xướng mà thôi.

Người nữ từ mười hai, mười ba tuổi đến bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi đều có kinh nguyệt. Có người bảo : Trong lúc kinh nguyệt, chẳng nên lễ bái trì tụng. Lời này rất không hợp tình lý. Thời kỳ có kinh, mau thì hai ba ngày, lâu đến sáu bảy ngày mới dứt, Người nữ tu trì cần phải niệm Phật không xen bỏ, đâu nên vì một chút bệnh nhỏ thiên nhiên mà bỏ lãng thời tu niệm? Khi có nguyệt kỳ chỉ nên lễ bái ít – Lễ bái ít chớ chẳng phải tuyệt nhiên không lạy, Còn sự tụng niệm kinh Phật đều chiếu theo lệ thường. Nên thường thay giặt quần áo, phải rửa tay cho sạch sẽ, đừng dùng tay dơ mà lần chuỗi, lật kinh và đốt hương. Trong Phật pháp đều viên thông, hàng ngoại đạo chỉ chấp một bên lý, người đời phần nhiều ưa tin ngoại đạo và tà kiến nên không được thấm nhuần lợi pháp (An Quang Đại Sư). Tổn hại chúng sanh vô cùng. lại còn phân biệt nam chướng ít, nữ nhân nghiệp chướng dẫy đầy, suy niệm ngược lại với giáo pháp từ bi bình đẳng của Phật.

Đại Sư Ấn Quang là bậc đạo sư đương thời Dân Quốc, công hạnh của Ngài vang lừng khăp Quốc gia Phật Giáo Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Tăng Ni Phật Tử Việt Nam tuy ở xa xôi ngàn dặm song rất cảm kích về đạo đức, trí tuệ của đạo sư , Đai sư nói giảng, viết sách Tịnh Độ xương minh Tịnh Độ làm hữu dụng cho Tăng Tục, nam nữ, trẻ già trong đạo, ngoài đời đều được nương từ lực của Đai Sư mà tu hành đạt thành chánh quả. Trong các trường Phật Học Việt Nam, tại Phật Học Đường Tây Phương Bồng Đão, tông môn Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng., nhất là Ni Trưởng Thích Nữ Huệ Giác, lúc nào cũng tán thán công hạnh lành từ bi quãng đại, xương minh lời Pháp, tư tưởng tu hành phóng khoáng, yếu chỉ, quy cách tu hành của đại sư đến với đại chúng liên hữu hậu tấn của tông phong, Thật hy hữu thay, một bậc tu hành đắc đạo thời cận đại.

Lời dạy của Ấn Quang đại sư

Niệm Phật Không Khen Chê

Niệm Phật Không Khen ChêĐiều kiện niệm Phật:

Niệm Phật mà không phát lòng Bồ Đề, thì không tương ứng với bổn nguyện của Đức A Di Đà Phật, tất khó được vãng sanh, thành tựu sở nguyện. Lòng Bồ Đề là tâm lợi mình, lợi người, trên cầu thành quả Phật, dưới nguyện độ chúng sanh “thượng cầu hạ hoá”, tế khổ quần mê. Tuy phát lòng Bồ Đề mà không chuyên trì niệm Phật, không thành nhất phiến, thì không được vãng sanh. Nên các liên hữu cần phải lấy sự phát lòng Bồ Đề làm chánh nhân, niệm danh hiệu Phật làm trợ duyên, rồi sau mới cầu sanh Tịnh Độ. Người tu tịnh nghiệp (tu pháp niệm Phật) cần phải hiểu biết điều nầy thật sâu rộng, cần thiết phải vừa tu niệm vừa nghiên cứu nghiêm tầm giáo lý pháp môn tu càng thêm hiệu quả.

Hành trang để phát tâm tu niệm Phật:

Một chữ nguyện bao gồm cả tín và hạnh. Tín là tin; tự tha, nhân, quả, sự, lý không hư dối (Tín tự là tin tất cả do tâm tạo. Mình niệm Phật sẽ được tiếp dẫn. Tín tha: tin Phật Thích Ca không nói dối, Phật A Di Đà không nguyện suông. Tin nhân: khi niệm Phật là nhân vãng sanh, giải thoát. Tin quả: tin sự vãng sanh thành Phật là kết quả. Tin sự: tin cảnh giới Tây Phương, tất cả sự tướng đều có thật. Tin lý: tin lý tánh duy tâm, bao trùm Phật độ. Mỗi điều trên đây đều xác thật nên gọi là không hư dối).

Hạnh là chuyên trì danh hiệu không xen tạp, không tán loạn. Nguyện là mỗi tâm ưa thích, mỗi niệm mong cầu. Trong ba điều kiện nầy, người tu tịnh nghiệp (tu pháp niệm Phật) cần phải đủ, không thể thiếu một, mà nguyện là điểm cần yếu. Có thể có tin, hạnh mà không nguyện, chưa từng có nguyện, mà không tin, hạnh.

Trong đời mạt pháp, người phát tâm tu niệm Phật, vẫn có nghiệp trần dấy động, ma sự nhiễu dương, nguyên do bởi ba nguyên nhân : không rõ giáo lý, ít học kinh điển, nhất là pháp môn tu; không nhất tâm tìm cầu, phát tâm tu cho lấy lệ, để được ca tụng tán thán là Đại Sư Tịnh Độ, chỉ nghiên cứu xem chừng năm ba câu pháp, vội cho là người tu của pháp môn niệm Phật, do ngã mạn, nên không gặp thầy lành bạn sáng; thiếu tự tin, xem lại những hành động không tốt của mình, hay thích nói lỗi người, khoe khoang điều tốt của mình, hay chê Tông phái nầy khen Tông phái nọ, rốt cuộc mình không tu được ở đâu, ai nói hay cũng được, nói quấy cũng xong; họ có tu hành gì đâu mà nói hay nói quấy, biết gì mà nhận định, cuộc đời tu của họ không lúc nào tự soi xét lại chính mình, xem mình đã làm được gì, tu được gì, làm được gì cho Thầy Tổ, cho pháp môn, cho Phật pháp?

Với ba điều trên, sự tự xét chỗ sai lầm của chính mình là điều mà người liên hữu Tịnh Độ rất cần thiết trong lúc thực tập, hành pháp. Đại để muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, không phải dùng chút phước lành, chút công đức lơ là là được; muốn thoát sự khổ sống chếtn luân hồi trong muôn vạn kiếp, không phải dùng tâm dần dà, hẹn hò, hứ khả, rồi lo rong chơi du hý, không lo tự cảnh tỉnh, trở về với cuộc sống hiện thực để có cơ hội tìm cầu giải thoát, vãng sanh Tây phương theo sở nguyện ban đầu! Họ đâu rõ chiếc bóng vô thường cô liu lặng lẽ, mới sớm mai thấy đó, rồi hoàng hôn phủ mất đó, đâu nên không siêng năng lo dự phòng giữ tịnh tâm gìn chánh niệm trước ư? Còn e sức chí nguyện không thắng nổi sức tình ái trong tam giới buộc ràng. Lúc bấy giờ tâm niệm Phật không hơn nổi tâm dục trần, như những kẻ niệm Phật, tu nhơn hạnh kém, lơ là biếng trể, nữa tin nữa nghi ngờ pháp Phật, thì ta cũng đành không biết làm sao vậy.

Đại Sư có bài kệ khuyến tấn :

Nam Mô A Di Đà,
Người nào không biết niệm?
Tuy niệm, chẳng tương ưng
Mẹ con khó hội kiến
Khi đi đứng ngồi nằm
Đem tâm nầy thúc liễm
Mỗi niệm nối tiếp nhau
Niệm lâu thành nhứt phiến
Như thế, niệm Di Đà
Di Đà tự nhiên hiện
Quyết định sanh Tây phương
Trọn đời không thối chuyển

Niệm Phật cần phải có niềm tin sâu nguyện thiết, như Đại Sư Tĩnh Am từng khuyến tấn : đi đứng nằm ngồi luôn gìn chánh niệm, hoặc kiết thất thực tập thúc liễm thân tâm, hoặc kinh hành vào đại định, lực Phật gia trì thành nhứt phiến, như kim cang bền chắc, một đời không thối chuyển, niềm tin yêu pháp môn, lục độ vạn hạnh ảnh hiện, lợi ích khắp mười phương, chúng sanh nương nhờ oai đức, làm bạn thánh hiền, dự hội hải chúng liên trì nơi thế giới Tây phương mầu nhiệm.

Lời dạy của Tỉnh Am đại sư
Trích: Tịnh Độ Giảng Lược
Tác giả: Hòa Thượng Thích Giác Quang

3 Cách Niệm Phật

3 Cách Niệm PhậtMặc trì thì niệm Phật bằng ý, thường thường trong đời sống thì ý thức con người hay bị dong rủi theo duyên, ngoại cảnh chi phối đủ điều, không bao giờ dừng nghỉ. Lúc gặp chánh pháp, có đủ duyên lành gặp đúng pháp môn tu. Thời gian thực tập chuyên tu tịnh nghiệp, tam nghiệp được phục chế, nghiệp lực không còn lừng lẫy, lửa tham sân si cạn dần theo sự thuần thục công đức siêng tu. Lúc hành đạo, chư liên hữu thực hiện ngồi bán già hay kiết già, kiết ấn tín (như hình ảnh Đức Phật ngồi thiền và thành Đạo dưới gốc cây Tất Bát La) qua thời gian khởi động ban đầu, hành giả bắt đầu dùng ý niệm Phật, tức niệm Phật bằng ý thức, không niệm Phật ra tiếng đọc tiếp ➝