Thiền Sư Băng Hoài Tế Năng Thị Chúng

Thiền Sư Băng Hoài Tế Năng Thị ChúngSư họ Châu, người Sơn Âm, từ nhỏ đã biết lấy việc niệm Phật thoát liễu sanh tử làm việc bổn phận. Năm 19 tuổi Sư xuất gia, tham học với Hòa thượng Trạm Nhiên ở Hiển Thánh, theo Hòa thượng Kim Túc Mật thọ giới. Túc Mật dạy Sư tham thoại đầu “Que phân khô”. Sau, Sư đến Bắc thiền ở Cô Tô tham vấn Lão hòa thượng Hán Nguyệt, thấy đạo tràng có người tỉnh ngộ, Sư bùi ngùi sanh hổ thẹn, từ đó dõng mãnh dụng công. Ngày nọ, đang ăn cơm, Sư ngẩng đầu thấy cửa sổ, hoát nhiên tỉnh ngộ. Hán Nguyệt xuống trai đường hỏi Sư:

– Nghe nói ông có lối vào, ông vào bằng cách nào?

Sư lấy chân đạp đất. Hán Nguyệt hỏi:

– Gót chân này của ông so với Mã Tổ đạp Hòa thượng Thủy Lạo ngã nhào là giống hay khác?

Sư đáp:

– Giống và khác rốt cuộc chẳng dính dáng.

Hán Nguyệt dựng đứng thanh tre hỏi:

– Gọi thanh tre thì kẹt, không gọi thanh tre thì sai, ông gọi là cái gì?

Sư đáp:

– Sông Phổ uốn quanh chảy vào Trường Giang.

Hán Nguyệt nói:

– Ông cứ như hôm nay mà hạ thủ công phu đi.

Lúc này Hòa thượng Tam Phong Phạm Y, Hòa thượng Thụy Quang Đảnh Mục làm Thủ tòa hai đạo tràng, Sư đều đến tham vấn. Ngày nọ, tiết trời mát mẻ, Sư thả bộ xuống khe suối. Chợt thấy hoa đào nở đầy, mọi mối nghi từ trước trong Sư rủ sạch. Sư thể nhập yếu chỉ tông Lâm Tế và làm bài kệ:

Năm xưa rớt trong đám dây leo

Ngày nay thoát khỏi mớ lau bèo

Từ đây ngồi phá trăng ngàn đỉnh

Thay đổi mắt mi kẻ nhìn theo.

Thế rồi Sư mai danh ẩn tích trong Lô Sơn mấy năm, sau vân du khắp nơi, rồi quy ẩn trong Vân Đảnh Sơn, Diêu Giang, tự lấy hiệu là Nhất Hác Tử. Những năm về già, Sư thâm nhập pháp môn Tịnh độ.
* * *
Pháp ngữ khai thị hành giả Tịnh độ

Người niệm Phật chỉ cần cử một câu Di-đà, lấy đó làm việc hướng thượng thẳng tới. Ngài Vĩnh Minh nói: “Cách học đạo không có gì kỳ đặc, ngoài việc chỉ cần tẩy sạch chủng tử nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến nay của sáu căn”. Lời này quả rốt ráo! Bởi con người sống trong vòng ngũ dục, thí như thích sắc thì có bóng dáng của sắc rơi ngay trong cửa ngõ sáu căn. Khi vào sâu trong ruộng tám thức, nó thường hiện khởi trong thấy, nghe, hiểu biết, sanh tình sanh ái, xả bỏ không được. Nó khởi vô số Hoặc, sanh vô lượng tham đắm, tạo vô lượng nghiệp, chịu vô vàn khổ, đều do bóng dáng này gây nên. Bóng dáng tức là chủng tử, cũng chính là tập khí. Phật biết tập khí khó trừ nên dạy chúng ta chấp trì một câu Di-đà, chuyên tâm mà niệm thì tập khí dần dần tiêu, ánh sáng của tâm dần dần hiển lộ, từ phần chứng dần dần đến toàn chứng. Niệm niệm liên tục, tất đến lúc tập khí tiêu hết, gốc rễ tự dứt thì tự nhiên cùng chư Phật sánh vai mà đi, đồng thở một lỗ mũi. Đó chẳng phải là một câu mà rõ ràng vượt hẳn trăm ức chăng! Sắc là một trong ngũ dục đã như vậy, thì thanh, hương, vị, xúc có thể tự nghiệm biết.

Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nếu người muốn biết cảnh giới Phật, phải tịnh ý mình như hư không, lìa xa vọng tưởng và các nẻo, khiến người hướng đến đều không ngại”. Cảnh giới Phật thì người người vốn có, mỗi mỗi hiện thành, chỉ vì trần tình che lấp nên nó trở thành biển nghiệp. Nay muốn chuyển biển nghiệp này thành cảnh giới Phật thì trước tiên phải làm thanh tịnh ý mình. Ý đã tịnh thì ngày ngày thường ở trong cảnh giới Phật. Rất nhiều người sở dĩ không làm thanh tịnh ý mình được, đều do bị vọng tưởng và các nẻo làm nhiễm ô. Muốn lìa xa nó thì phải thống thiết mà sách tấn lên, nhất tâm bất loạn chấp trì danh hiệu, chớ bàn thị phi, được mất, chỉ một lòng tin vào lời Phật, niệm tịnh liên tục, câu câu rõ ràng. Niệm đến lâu ngày tất nhiên chuyển hóa vọng tưởng thành chánh niệm, biến các nẻo thành giải thoát.

Pháp môn Tịnh độ xem thì dường như dễ, trì thì thật là khó. Bởi người học tập thì ít, người nghi ngờ thì nhiều, nên pháp môn vi diệu này ít có người đủ lòng tin thú hướng tu tập. Do đó trong Kinh Di Đà gọi đây là “pháp khó tin”. Phàm ý chỉ thâm sâu của Phật là muốn con người mượn Di-đà ở Tây phương để chứng Di-đà của chính mình, mượn Tịnh độ của Tây phương để chứng Tịnh độ của chính mình. Chứng đắc Tịnh độ, Di-đà của chính mình, thì Tây phương cũng là cõi Phật của chính mình. Không những Tây phương là cõi Phật của chính mình mà Đông phương, Uế độ của tất cả chúng sanh cũng là Tịnh độ của chính mình, Di-đà của chính mình, cho đến thế giới mười phương, không có mảy vi trần nào mà chẳng phải là cõi Phật tự tâm của ta. Tất cả diệu dụng ấy đều nằm trong một câu Di-đà. Khai cội nguồn, mở căn nguyên thì một Tịnh thì tất cả Tịnh, một chứng thì tất cả chứng. Pháp môn này ý chỉ sâu xa, không phải người học rộng, tu tập lâu ngày thì không thể thấu suốt được.

Tây phương được gọi là thế giới Cực Lạc. Lạc này là sự an lạc xứng tánh. Cơm áo hiện thành, lầu đài đủ cả, ao báu tùy ý, nhạc trời rộn vang, khí trời ôn hòa, con người không bị cái lạnh cắt da. Gió nhẹ thổi qua, phiền não tiêu sạch, hoa rơi lả tả, hương trời thơm ngát, lại có chim muông thuyết pháp nên người mê cũng ngộ. Có bậc Thượng thiện làm bạn, nên kẻ tà cũng thành chánh; ánh sáng có cả ngày đêm, nên u ám trừ sạch, thấy nghe thanh tịnh, trí tuệ tăng trưởng, hằng sa Tam-muội chẳng cầu mà tự chứng, vô lượng diệu dụng, đâu đợi tu lâu. Còn nữa, không có cái vui thoái đọa mà có niềm vui tinh tấn, bởi vậy chư Phật mười phương tán thán, quả thật là cảnh giới không thể nghĩ bàn của Đại thừa, khiến cho chúng sanh vượt ngang ba cõi, lên thẳng Bát địa, Quyền thừa Nhị thừa lẽ đâu sánh kịp! Còn như người chuyên chí Tây phương, chỉ trong bảy ngày được Nhất tâm bất loạn thì vào ngay đất Bất thoái, khoanh tay an nhàn, như vầng trăng sáng rỡ giữa hư không, không mảy trần nào vấy bẩn được, như hoa sen mọc lên từ đất dơ. Cuối cùng khép mắt, đứng mà chết, ngồi mà tịch, thong dong nơi thế giới Cực Lạc, không khác Phật A-di-đà.

Sau khi tỏ ngộ còn phải siêng niệm Phật để sanh Tây phương chứng đắc hằng sa diệu dụng. Một khi đã sanh về cõi ấy thì không thứ gì ta không biết, không hiểu, thấu tận căn nguyên của các pháp, đó gọi là “chứng đắc trí tuệ đồng như Phật”. Hễ thân cận Di-đà thì tất cả phiền não trong đất phàm tâm, nào hiện hành, chủng tử đều dứt sạch, đó gọi là “làm sạch không phiền não đồng như Phật”. Hàng Ngũ địa Bồ-tát của Hoa Nghiêm vẫn còn học khắp tất cả pháp thế gian để tùy thuận giáo hóa chúng sanh, còn như người sanh Tây phương, thì tất cả Hoặc nghiệp chướng ngại việc giáo hóa, dù nhỏ nhiệm như mảy trần, hạt cát đều rốt ráo đoạn sạch, đó gọi là “phá sạch trần sa như Phật không khác”. Tất cả vô minh khó đoạn nhất, Thích-ca tu tập trong muôn kiếp ngàn đời mới đoạn sạch, còn như người sanh Tịnh độ liền đoạn ngay được vô minh, lên ngay quả Đẳng giác, đó gọi là “đoạn sạch vô minh như Phật không khác”. Hễ người sanh về Tây phương, đi trên đất như đi trên nước, đi trên nước như đi trên đất, vô số biến hóa, không thứ gì mà làm chẳng được, đó gọi là “đủ cả thần thông như Phật không khác”. Hễ nghe diệu pháp âm thì thấu triệt ngọn nguồn lý tánh, tự tại vô ngại, an vui xứng tánh, đó gọi là “thấy suốt thể tánh như Phật không khác”. Hễ nương thần lực của Phật thì đủ sức giải thoát, làm được việc khó làm, độ những kẻ khó độ, điều phục kẻ cang cường, hạnh nguyện Bồ-đề thảy đều tu tập, không thứ gì chẳng thể viên mãn, lại có hằng sa diệu dụng, vô lượng diệu trang nghiêm, đó gọi là “chứng các diệu hạnh như Phật không khác”. Đến được đất này thì gọi là sanh vào nhà Như Lai, thọ dụng đồng như Phật. Nếu sau khi rõ tâm thấy tánh mà liền khoanh tay, không đặt chí về Tây phương Tịnh độ thì người này trụ nơi Hóa thành của Thanh văn, rốt cuộc không được vào Bảo sở của chư Phật.

Phàm con người, chỉ một niệm bất giác thì mê việc lớn này, đánh mất chánh niệm Kim cang liền trở thành vọng niệm tạp nhiễm. Niệm này vừa khởi ở trong thì hiện ngay ra đầu cửa sáu căn, đều là việc tạp nhiễm. Bởi vậy, những gì chiêu cảm từ bên ngoài đều là Uế độ tạp nhiễm. Thế giới một phương đã Uế thì thế giới mười phương cũng thành Uế độ, vô lượng diệu nghĩa, trăm ngàn pháp môn đều biến thành gai góc. Những thứ mắt thấy, những điều tai nghe, tất cả đều thành cảnh của phiền não. Bởi vậy, chúng sanh bị nó trói buộc, chịu vô lượng khổ, không được giải thoát. Phật mở con đường thẳng tắt vi diệu, khiến người tin mà đi tới, có thể đoạn dứt khổ, chuyển được tâm. Nhưng cần phải buông bỏ mọi việc, chỉ cử một câu Di-đà, chẳng kể gì rảnh bận. Tu tập nhiều tháng nhiều năm, tự nhiên thuần nhất không tạp, đã thuần lại thuần hơn, liền được nhất niệm thuần chân. Đó là nhất niệm thuần tịnh. Một niệm thanh tịnh thì sáu căn thanh tịnh. Bên trong thân tâm đã thanh tịnh, thì bên ngoài chiêu cảm thế giới Tịnh độ cũng được thanh tịnh. Nói rộng ra thì thế giới mười phương cũng thanh tịnh, đương nhiên không rơi vào bốn câu, trăm lỗi. Đây là diệu dụng xuất cách. Nhân đã thanh tịnh thì quả đương nhiên sẽ thanh tịnh. Như cha thanh tịnh hay thực hành lòng từ, thì con thanh tịnh hay tận tâm hiếu kính; vua thanh tịnh hay dùng người sáng suốt thì bề tôi thanh tịnh hay bắt chước người tài. Tăng thanh tịnh hay thành tựu đạo nghiệp thì tục thanh tịnh hay học theo phạm hạnh ấy. Trong cảnh thuận mà thanh tịnh thì trong cảnh nghịch cũng thanh tịnh, nhẫn đến hạnh tham của Bà Tu Mật Nữ cũng thanh tịnh, tâm sân của Quốc vương Vô Yểm cũng thanh tịnh, tâm si độn của Thắng Nhiệt Bà-la-môn cũng thanh tịnh. Tất cả vô minh phiền não đều hóa thành thanh tịnh, phường dâm quán rượu cũng thanh tịnh. Đến cảnh giới này thì cung ma, hang hùm, thiên thượng, nhân gian đều vỗ tay đi qua, ca sầu vui múa, làm kẻ tự tại. Vậy thì, niệm Phật hay sanh Tây phương, phá sanh tử, ra khỏi ba cõi, vượt khỏi trói buộc, thoát khỏi hầm lửa, thấy rõ tự tâm, ra khỏi nanh vuốt, sức ấy lớn thay! Có đường thẳng tắt như vậy mà không chịu đi, trái lại còn chê bai bài xích, quả thật là kẻ phàm phu điên đảo, chủng tử ngu mê, thật xót thương thay!

Một môn niệm Phật, nếu thâm nhập thì nhận được phép tắc Vô tận tạng của Như Lai. Tạng ấy, ai nấy đều sẵn có, nhưng bị trần duyên che lấp nên không tự thấy, cần phải niệm Phật để khơi nó lộ ra. Như kẻ nghèo túng biết có của báu ẩn tàng ngay trong nhà thì phải kiên tâm trì chí, lao động cật lực, cày xới đất lên. Một khi đất đã hết thì kho báu tự hiện. Từ đó, kẻ ấy được gọi là ông Trưởng giả giàu có. Nên biết một câu Di-đà, đi đứng chẳng lìa, khổ vui chẳng quên, tâm tâm liên tục, đọc nghe rõ ràng, tiến mãi chẳng dừng. Niệm đã tha thiết, trần chướng liền mở, lên nhà vào thất liền có thọ dụng, đó là kho báu vô tận. Trong đời mạt pháp, tuy người tham thiền hầu hết có tỏ ngộ, nhưng rất khó chứng, không thoát khỏi triền phược. Nếu như niệm Phật ngay thì dõng mãnh tiến tới, có thể thực hành thì ít nhưng công năng thì sâu. Các ngài như Tử Tâm Ngộ Tân, Thiên Như Duy Tắc, Viên Chiếu Tông Bản, Tịnh Thọ Từ Thâm, Chơn Hiết Thanh Liễu, Vĩnh Minh Diên Thọ là bậc rường cột của năm tông, đều thú hướng pháp môn này mà nhận được Như Lai tạng. Bởi vậy, thâm nhập pháp môn này thì cặn đục tự nhiên tiêu hết, vô minh tự nhiên hết sạch, sáu căn tự nhiên thanh tịnh, biển nghiệp tự nhiên cạn khô, sanh tử tự nhiên tịch diệt, Tam-muội tự nhiên hiện tiền, Lục thông tự nhiên đầy đủ, bờ Giác tự nhiên vượt lên, công đức tự nhiên thành tựu, rõ nhân thấu quả, lợi mình lợi người, cùng sanh Cực Lạc, vào ngôi Bất thối. Cổ đức nói: “Nhiếp phục 6 căn, Tịnh niệm liên tục, không quá 49 ngày liền chứng Tam-muội. Tam-muội đã thành, đều được giải thoát, ta mặc tình lấy nhưng không hết, dùng nhưng không cạn”. Ngài Vân Thê nói: “Ngang bằng chư Thánh trong một lời, vượt ngoài ba kỳ trong một niệm, thì chỉ có công đức niệm Phật mà thôi”. Như vậy, chặt thẳng thống khổ, chẳng qua chi ly, vượt ngay nhân hữu lậu, trọn chứng quả vô vi, pháp môn thù thắng này, ta nguyện cùng tất cả chúng sanh trong đại địa nhắm ngay đó mà vào.

Có người Hỏi: Nghĩa của Tây phương Tịnh độ thế nào?

Sư Đáp: Tịnh độ tức là công phu tu tập đến chỗ rốt ráo nhất, mọi thứ cặn bã đều tiêu sạch, không còn mảy may cấu uế. Khi thật sự đến đất ấy rồi thì phàm thánh đều hết, chân ngụy đều quên thì đó là Tịnh độ chân thật, mới là nơi an thân lập mạng của ta. Còn như Tây phương, có đủ 7 nghĩa:

1. Đứng về năm màu mà luận, thì Tây phương là màu trắng, không có các thứ nhiễm ô, tượng trưng cho sự sáng sạch. Người tu Tịnh độ dùng một câu Di-đà gội rửa ba nghiệp thân khẩu ý, là làm thanh tịnh chánh nhân, nhân tịnh thì quả cũng tịnh. Bởi vậy người niệm Phật, lâm chung sanh Tây phương, chính là nhân quả tương hợp.

2. Đứng về bốn mùa mà luận, thì Đông phương là đất sinh trưởng tượng trưng cho mùa Xuân; Tây phương là nơi làm cho chín, tượng trưng cho mùa Thu. Giống như phàm phu phát tâm ở phương Đông, nhờ niệm Phật mà vãng sanh, tức là thành thục đạo quả ở phương Tây.

3. Theo Ngũ hành mà luận, thì Đông phương thuộc Mộc, Tây phương thuộc Kim. Mộc gặp búa rìu đẽo gọt chuyển cây tạp thành rường cột. Phàm phu giống như cây chưa đẽo gọt, chịu nhất tâm hệ niệm danh hiệu Phật ở Tây phương, rõ ràng được búa rìu đẽo chạm, tự chuyển phàm thành thánh, đạo đức hoàn bị.

4. Theo Bát quái mà luận, thì Đông phương thuộc quẻ Chấn, biểu trưng cho động, động thì sanh các thứ khổ não, nên thế giới Ta bà được gọi là Khổ hải. Tây phương thuộc quẻ Đoài, tượng trưng cho an vui, nên Tây phương có tên là thế giới An Dưỡng hay cõi Cực Lạc.

5. Theo mặt trời mặt trăng mà luận thì, mặt trời là Dương, tượng trưng cho Trời, mặt trăng là Âm, tượng trưng cho Đất. Hai hành tinh này mọc ở phương Đông và lặn ở phương Tây, con người nên bắt chước, siêng tu Tịnh nghiệp cầu về Tây phương, đó gọi là đạo Tam tài nhất quán (Thiên, địa, nhơn).

6. Con người ở Đông phương giống như cây, mùa Xuân thì đâm chồi nảy lộc, mùa Thu thì lá rụng cành khô. Tươi, khô, thịnh, suy này giống như chúng sanh khi ở trong biển khổ Ta bà bị phiền lụy bởi những thứ như sống chết, thành bại, được mất … Còn Tây phương giống như vàng ròng, vàng thì trải qua muôn kiếp vẫn chẳng hư hoại, ở trong dơ bẩn nhưng không biến chất, vào nước lửa chẳng đổi thay, nên người sanh Tây phương được gọi là Cực Lạc, vượt sanh tử, thoát ba cõi.

7. Đông phương là nước hữu vi, nào ăn, mặc, cung điện, nhà cửa, vật dụng, tất cả phải do sức người làm ra mới có, Đông phương là cõi Dục lạc. Phàm những ai ở quốc độ này đều tham cái vui ngũ dục, mê mất mặt mũi thanh tịnh xưa nay. Còn Tây phương là nước vô vi, nghĩ đến áo thì áo hiện, nghĩ đến ăn thì ăn đến, muôn ngàn thọ dụng tự nhiên, chẳng phải nhọc công làm, Tây phương là cõi Tánh lạc. Người sanh Tịnh độ hưởng sự an vui xứng tánh soi thấy năm uẩn đều không.

Hỏi: Buông bỏ hết tình thức, xưa nói “liền có thể ngộ được ông chủ trong mộng” sao còn dùng công phu thẳng tắt, lại dạy người phải khổ công niệm Phật, nhắm trong cái chi ly mà cầu?

Đáp: Buông bỏ hết tình thức rất là dễ dàng, chỉ là người đời không thể buông bỏ, mà cũng chưa từng buông bỏ. Nếu khởi tâm muốn buông thì liền nảy sinh lắm việc, vừa khởi tâm muốn bỏ, lại càng thêm phiền toái. Bởi phàm phu tìm kế sống ngay nơi tâm ý thức, muốn dùng tâm ý thức để buông bỏ muôn duyên, chẳng khác nào đem lửa đom đóm thiêu cháy núi Tu Di, rốt cuộc không thể thiêu được. Chỉ có người đại triệt đại ngộ mới hay khéo dùng, còn lại đều không thể. Cho nên nếu không thâm nhập pháp môn niệm Phật, thì mặc kệ người khác buông hay không buông, bỏ hay không bỏ, mình chỉ lớn tiếng niệm đi niệm lại, đầu sào trăm thước hố thẳm buông tay, tình duyên chẳng đoạn nhưng mất, khí chất chẳng đổi nhưng thay, liền có thể buông thân nằm ngang, đến đi tự tại, hiện tại chính là cố hương yên bình của mình.

Hỏi: Trong thời Oai Âm Vương, trước lúc cha mẹ sanh ra ấy, có gọi là Tịnh độ không? Có gọi là Tự tánh Di-đà không?

Đáp: Thời Oai Âm Vương, trước lúc cha mẹ sanh ra, cố nhiên là chân Tịnh độ, chân Tự tánh Di-đà, chỉ do vì gọi tên không được. Nhưng nếu gọi được thì thành Uế độ mà không còn là Tịnh độ, liền thành phàm phu mà không phải là Di-đà. Chúng sanh trong thế giới Ta bà chỉ vì danh tự này mà bỏ không được, quên không xong, cho nên chuyển Phật Di-đà trong pháp giới thanh tịnh xưa nay vốn có thành phàm phu trong đời ác ngũ trược. Nếu trong lòng không có thứ tạp nhạp ấy thì tự nhiên cùng tắc biến, biến tắc thông, chỗ thông ấy thấy Tự tánh Di-đà, liền chứng Duy tâm Tịnh độ.

Hỏi: Thiền sư khi đại ngộ rồi, có thể thong dong trong Thường Tịch Quang, đâu cần cầu sanh Tây phương, sau đó mới gọi là có ích?

Đáp: Thiền sư quả thật có sức mạnh lớn, đến khi buông bỏ thân mạng thì liền được chút phần thọ dụng trong Thường Tịch Quang. Nhưng tập khí vẫn còn dày, nên tiến tới rất khó khăn. Trí tuệ cỡ như Lô Xá Na Phật mà còn phải tu tâm trăm kiếp, nếu người trí chưa bằng như Phật ấy thì chưa có ai chẳng bị nghịch cảnh đánh mất. Bởi vậy cầu sanh về báo độ của Phật Di-đà, gần gũi báo thân Di-đà, trước giữ chắc mình không thoái chuyển, lại càng phải tinh tấn mới vào được giai vị Phật.

Hỏi: Cõi này cũng có ao, hoa, suối, cây v.v… đáng vui, cõi kia ao, hoa, suối, cây v.v… cũng đâu hơn cõi này, tại sao lại nói Tây phương là do xứng tánh mà hiện?

Đáp: Phàm phu có hai tình chấp khó thay đổi, nên rơi hết trong sanh tử luân hồi. Cảnh giới mà cõi này có đều do đối đãi mà hiện. Có thành có hoại, nên gọi là cảnh sanh diệt. Nếu sanh cõi kia rồi, lìa đối đãi của ba cõi, vượt sanh tử thoát luân hồi, cho nên trong thế nào thì hiện ra ngoài thế ấy. Nếu chúng ta đến được đất ấy, tức chân ngụy đều quên, ao, suối, hoa, cây muôn thứ hiện ở bên ngoài đó không rơi vào chân ngụy trùng trùng, có thể thấy chân cảnh của xứng tánh, an vui xứng tánh, không hề có các việc tươi, khô, thịnh, suy, tuyệt nhiên không phải do đối đãi mà thành, không mảy may rơi vào pháp sanh diệt. Đương nhiên, ta không thể đem tâm phàm phu suy lường rồi nghĩ bàn mà cầu được, lẽ đâu cõi này sánh kịp!

Hỏi: Nghe rằng, người niệm Phật cũng vào được pháp giới Tịnh độ, vậy cái gì gọi là pháp giới Tịnh độ? Và phải tu như thế nào để vào được? Nếu xưa nay thanh tịnh thì dùng niệm Phật làm gì? Nếu xưa nay dơ uế thì tại sao niệm Phật liền được thanh tịnh?

Đáp: Pháp giới xưa nay thanh tịnh, do trong tâm chúng sanh có vô lượng tạp nhạp, pháp tùy tâm biến nên thành Uế giới. Nay nếu cử một câu danh hiệu Phật, buông bỏ muôn duyên, vững chắc như người đàn bà câm cầm chổi quét dọn suốt 12 thời, đâu đâu cũng sạch sẽ. Niệm đến tâm không, tâm không thì tạp nhiễm cũng không, tạp nhiễm đã không thì trở lại là pháp giới thanh tịnh xưa nay. Đó thật là lắng đục thành trong, chuyển uế thành tịnh. Đến được đất này thì sanh tử cũng là Tịnh độ, Thiên đường địa ngục cũng là Tịnh độ, núi cao đất sâu cũng là Tịnh độ, vinh nhục thăng trầm cũng là Tịnh độ, thị phi được mất cũng là Tịnh độ, cả thế giới mười phương cũng là Tịnh độ, nên gọi đó là pháp giới thanh tịnh, do công dụng niệm Phật mà vào được, há không thẳng tắt ư!

Hỏi: Người vào pháp giới Tịnh độ, thức thứ tám của họ rỗng rang chưa? Nếu chưa rỗng rang thì sao gọi là pháp giới Tịnh độ?

Đáp: Đây chỉ là chút phần tịnh, đâu thể làm rỗng rang thức thứ tám. Nếu muốn toàn tịnh thì thẳng đến thành Phật, thức thứ tám mới rỗng rang, nên nói: “Sau đạo Kim cang dị thục không”.

Hỏi: Pháp giới Tịnh độ thuộc độ nào trong bốn độ?

Đáp: Nếu đoạn Hoặc chưa hết thì đó là Phương Tiện Hữu Dư độ, hay Thiểu phần Thường Tịch Quang độ. Nếu vào đó thì phải càng tinh tấn tu tập, thẳng đến thành Phật thì mới gọi là Toàn cư Thường Tịch Quang độ.

Hỏi: Đã có pháp giới Tịnh độ để sanh thì đâu cần dạy người cầu sanh Tây phương Tịnh độ?

Đáp: Thế giới mười phương tuy là một pháp giới Tịnh độ, nhưng căn cơ chúng sanh có lợi có độn, đâu thể chứng nhập được. Bởi vậy, Phật mở cửa phương tiện, dạy người phải từ Tây phương mà thể nhập. Tây phương là báo độ của Di-đà. Thân cao 60 vạn ức na-do-tha hằng hà sa số do-tuần là báo thân của Di-đà. Báo thân tất ở nơi báo độ. Người học đạo hễ nghĩ đến Phật quả Bồ-đề tất phải thân gần báo thân Phật, nghe diệu pháp của Phật mới chứng đắc rốt ráo pháp giới Tịnh độ. Bởi vậy, đã vào được một phương thì thế giới mười phương cũng vào được. Một phương thanh tịnh thì mười phương thế giới đều thanh tịnh; một phương thành thế giới Cực Lạc, thì mười phương thế giới cũng thành Cực Lạc.

Hỏi: Nghe thầy dạy, niệm Phật không cho niệm thầm, nếu người ốm yếu, thật không thể ngày đêm niệm lớn tiếng. Người xưa thì dạy, âm thanh ở ngay cửa miệng, lặng lẽ mà niệm, cách này thế nào?

Đáp: Người niệm thầm, sức yếu khí hôn, dễ sanh giải đãi, hơn nữa không thể tác động đến người khác. Những âm thanh tạp nhạp, vọng tưởng nhân cơ hội ấy tác động vào tâm thì đâu thể thành tựu Tịnh nghiệp? Nếu thật người đó ốm yếu không thể niệm lớn tiếng thì cho phép dùng cách ấy, nhưng phải tâm tâm phản chiếu, quyết chí Tây phương, mỗi ngày phải tinh tấn lên mới được.

Hỏi: Người niệm Phật lớn tiếng không cần ghi số lượng được không?

Đáp: Người mới thực hành, ngày ngày phải ghi, lấy thời khóa làm lộ trình thì không rơi vào giải đãi, biếng nhác. Nếu không có số lượng nhất định, thì lúc niệm lúc không, vui chán xen tạp, rảnh bận không chừng, dễ sanh phóng túng, tịnh nghiệp khó thành. Duy người tu lâu thì ghi hay không ghi cũng được. Nhưng lúc chấp trì một câu Di-đà phải như cầm kiếm Thái A, muôn người địch không lại, phá thủng vòng vây, chém sạch quân giặc, thì tự nhiên đến được thế giới thanh tịnh.

Hỏi: Người tu tập, quý ở chỗ một thấu tỏ thì tất cả thấu tỏ, trong lòng không gá nương, không duyên niệm, nay luôn luôn niệm Phật là có duyên niệm, có gá nương, đâu thể gọi là một thấu tỏ thì tất cả thấu tỏ?

Đáp: Đây chẳng qua lấy nêm tháo nêm, lấy độc trị độc mà thôi. Người đời nếu niệm thanh sắc, tài lợi thì sẽ bị những thứ này trói buộc, rồi nuôi dưỡng nó trong lòng. Niệm thứ gì cũng đều như vậy cả. Phật thương chúng sanh không thể buông bỏ tâm niệm, nên lấy một câu Di-đà này thay thế tình niệm của người đời. Đây gọi là lấy niệm xuất thế thay đổi niệm thế gian, lấy niệm công đức thay cho niệm tội lỗi, lấy niệm giải thoát thay cho niệm trói buộc, lấy niệm an lạc thay cho niệm hiểm nguy. Như người thợ khéo tay lấy rường thay cột, tẩy rửa làm cho chúng sanh sạch hết tạp niệm, nhân một niệm của sự niệm Phật này mà trở về cố hương vô sở hữu. Người xưa nói: “Qua sông phải nhờ bè, đến bờ chẳng dùng ghe”, thì làm gì có gá nương hay duyên niệm đâu!

Hỏi: Người ta nói, tham thiền là lộ trình thẳng tắt, niệm Phật là con đường quanh co, đúng không?

Đáp: Tham thiền cốt phải chăm chăm buông bỏ, niệm Phật cốt phải câu câu toàn đề. Đề và buông tuy khác, nhưng công dụng như nhau. Nếu người giỏi hạ thủ công phu thì nơi quanh co cũng thành thẳng tắt, không biết dụng công thì nơi thẳng tắt trở thành quanh co. Hơn kém là ở con người, không nên nghi ngờ pháp môn sâu cạn. Cổ đức nói: “Chỉ đề mà không cần tham gì khác, cầu thì sẽ thấy”. Con đường niệm Phật, rất dễ thực hành, vô cùng thẳng tắt, xin suy xét kỹ.

Hỏi: Trước đây có một người nói mình đã tỏ ngộ, chê niệm Phật là kế sanh nhai của kẻ độn căn, nói vậy là thế nào?

Đáp: Miệng nói tỏ ngộ, nhưng mới chuyển một bước liền có không biết bao thứ chấp trước dắt dẫn, vô minh hiện ngay trước mắt, phải gọi gã là kẻ chẳng biết gì mới đúng. Hơn nữa, do không biết lực dụng của một câu Di-đà nên mới cho đó là kế sanh nhai của kẻ độn căn. Nếu hiểu được như vậy, thì liền chứng câu thoại đầu “Bất thoái chuyển”, gót chân chỉ mới đứng vững mà thôi. Tồi tệ thật! Người đời nay chẳng thể sánh với người xưa. Việc ấy đâu có gì lạ!

Hỏi: Người tu Tịnh độ có nên ghi nhớ, ấp ủ trong lòng tất cả những cảnh mình đã thực hành thuần thục rồi không?

Đáp: Người niệm Phật nhưng không thành tựu Tam-muội, lỗi chính ở chỗ này. Cảnh chưa thuần thục thì muốn tập thuần thục, nhưng chẳng chịu buông bỏ. Cảnh thuần thục rồi thì thường sợ bị quên mất, nên nhớ nghĩ hoài, đó là cái tệ đáng trách. Nhẫn đến, nhận ân chịu oán của người khác quyết lòng phải trả hết mới thôi, dù chết cũng cam tâm. Nếu thay đổi cái nhớ nghĩ đó bằng một câu danh hiệu Phật, buông bỏ hết mọi thứ đã học đã thực hành đi, phó thác nó cho nước chảy mây trôi, lâu ngày chầy tháng tự nhiên thành một khối Tịnh độ vững chắc.

Hỏi: Niệm Phật cầu sanh Tây phương có thể đọc sách Phật và sách Nho không?

Đáp: Tất cả Phật pháp và các nghĩa lý đều trợ giúp ta tiến tu, nhưng nếu không hiểu rõ diệu nghĩa của pháp môn Tịnh độ và tin không tha thiết thì phải xem gấp những kinh sách nói về Tịnh độ để quyết định sự tu tập và thú hướng. Còn những sách vở khác không nên dung nạp bừa bãi trong tâm, chúng sẽ trở thành nhân duyên chướng đạo. Bởi vậy Nhất tâm bất loạn là tông chỉ của việc tu Tịnh độ, là cửa lớn để thành tựu Tam-muội.

Hỏi: Như Lai dạy người cầu sanh Tây phương, lại dạy người hồi nhập Ta bà, hai ý này trái nhau, nguyên nhân là thế nào?

Đáp: Ông không thấy đoạn văn trước có câu “Không trái An Dưỡng” đó ư? Bởi người mới phát tâm Bồ-đề, sanh trong nước Cực Lạc ở Tây phương, có nhiều thời giờ hàm dưỡng huân tu, Hoặc chướng hết sạch, cửa Tuệ mở toang, thần thông đốn phát lên ngôi Bất thoái, sau đó lại ra giáo hóa chúng sanh, đến đi vô ngại. Do đó những người ở lâu nơi Cực Lạc rồi, Phật lại sai họ hồi nhập Ta bà để độ chúng sanh, nhưng vẫn không trái với An Dưỡng. Trụ thần ở đây, phân thân hồi nhập, tùy loại hóa hiện. Nên biết, khuyên người bỏ Ta bà để sanh Tịnh độ, hay khuyên người bỏ Tịnh độ để sanh Ta bà đều phải quán cơ khế giáo, tùy căn cơ mà hóa độ, lợi mình lợi người. Đạo Bồ-tát viên mãn thì Phật đạo nào khó gì! Đây là phương pháp độ sanh vô cùng nhiệm mầu của Phật A-di-đà và Phật Thích-ca.

Hỏi: Pháp môn này, vượt thẳng ba cõi, điều ấy tin rồi. Còn chúng sanh trong thời mạt pháp sợ rằng họ tự sanh chướng ngại, chưa rõ có mối tệ nào không?

Đáp: Người tu Tịnh độ có 10 cái tệ làm chướng ngại pháp môn. Đó là:

1. Tin không hết lòng.

2. Làm không hết sức.

3. Phát nguyện không sâu.

4. Lẳng lặng niệm thầm.

5. Tâm duyên việc đời.

6. Chẳng trừ thương ghét.

7. Ôm nhiều nội điển ngoại điển.

8. Thích ngâm nga phân tâm.

9. Tán gẫu nói chuyện phiếm.

10. Không được nhất tâm bất loạn.

Người ra công khắc kỳ thủ chứng, tha thiết hạ thủ công phu quyết không để phạm phải 10 mối tệ vừa nêu, chống mắt dựng mày, truy đảnh niệm Phật, tự nhiên hiện tại thấy bản tánh Di-đà, mãn báo thân này về ngay Tây phương Cực Lạc.
(Trích dịch từ Giác Hổ Tập – Tục 62)

Thích Đồng Ngộ dịch
Trích: Tập San Suối Nguồn số 9 (TVHQ)
Biên tập: Trang nhà Huệ Quang

Thiền Sư Duy Tắc Trả Lời Hành Giả Tịnh Độ

Thiền Sư Duy Tắc Trả Lời Hành Giả Tịnh ĐộSư họ Đàm, hiệu Thiên Như, người Cát An, Giang Tây. Thuở nhỏ, Sư xuất gia với ngài Hòa Sơn, sau du phương đến núi Thiên Mục đắc pháp và kế thừa Thiền sư Trung Phong Minh Bản. Năm 1341, Sư trụ ở Sư Tử Lâm thuộc Tô Châu. Năm sau, môn nhân hợp sức dựng chùa Bồ Đề Chánh Tông, thỉnh Sư thuyết pháp, xiển dương tông phong Lâm Tế. Ngoài ra, Sư còn nghiên cứu tột cùng giáo nghĩa của ngài Vĩnh Minh, tông Thiên Thai, xiển dương Tịnh độ, soạn Tịnh độ Hoặc Vấn để trừ nghi và sách tấn hành giả tu tập. Sư được Thuận đế nhà Nguyên ban hiệu Phật Tâm Phổ Tế Văn Tuệ Đại Biện Thiền sư và y kim lan. Tác phẩm do Sư trứ tác gồm : Lăng Nghiêm Kinh Hội Giải 20 quyển, Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Sớ 10 quyển, Tịnh độ Hoặc Vấn, Thiền Tông Ngữ Lục, Thập Phương Giới Đồ Thuyết.

Sư thị tịch vào năm 1354, không rõ Tăng lạp bao nhiêu.

* * *

Một lần, hành giả Tịnh độ đến hỏi Sư :

Đại sư Vĩnh Minh nói : Có Thiền không Tịnh độ, mười hết chín lạc đường, không Thiền có Tịnh độ, vạn người tu vạn chứng, hình như Vĩnh Minh chủ trương Tịnh độ, ít đề cập đến các tông khác, e rằng có quá đề cao Tịnh độ, xem nhẹ Thiền tông chăng?

Thiền sư Duy Tắc đáp :

Câu hỏi này lớn thay ! Phải biết Vĩnh Minh không khen quá lời mà sự thật là như vậy. Tôi từng đọc qua các sách về Tịnh độ, biết rõ yếu chỉ của pháp môn này vốn dễ hành trì, dễ thể nhập, nhưng lại là pháp khó diễn nói, khó tin. Sở dĩ, Đức Thế Tôn lúc còn tại thế nói Kinh A Di Đà cho chúng đệ tử vì Ngài biết trước rằng trong thời mạt pháp có rất ít người tin và thú hướng tu tập. Bởi vậy, Phật dẫn chư Phật trong sáu phương dùng tướng lưỡi rộng dài, nói lời chân thật nhằm phát khởi lòng tin nơi họ, phá mối nghi cho họ. Trong đoạn cuối của bộ kinh, chư Phật ngợi khen, rồi Thế Tôn tự ngợi khen, rằng : “Ta ở trong đời ác ngũ trược làm việc khó làm, diễn nói pháp khó tin này cho tất cả thế gian, đó là việc vô cùng khó”. Phật dặn đi dặn lại như vậy cốt khuyên người tin và thú hướng. Hơn nữa, Đức Thế Tôn đại từ ban pháp trong mạt kiếp, một câu một kệ từ kim khẩu Phật nói ra, tất cả trời người đều tin nhận, vâng làm. Thế nhưng chỉ riêng pháp môn Tịnh độ này, chúng sanh vẫn còn nghi là tại sao vậy? Bởi vì giáo môn này vô

cùng rộng lớn, pháp tu này rất đơn giản, dễ dàng. Do nó rộng lớn nhưng lại đơn giản, dễ hành trì, cho nên chúng sanh không khỏi không nghi. Nó rộng lớn vì gồm thâu tất cả căn cơ. Trên thì Bồ-tát Bổ xứ trong quả vị Đẳng Giác cũng sanh Tịnh độ, dưới đến ngu phu ngu phụ, bọn vô tri tạo Ngũ nghịch, Thập ác, trong lúc lâm chung niệm Phật sám hối, quy tâm về Tịnh độ thì đều được vãng sanh. Nó đơn giản dễ hành trì vì không cần phải gian nan, lao khổ, lại không bị mê lầm, lạc nẻo. Chỉ cần niệm 4 chữ danh hiệu “A Di Đà Phật” này, nhờ đây mà ra khỏi Ta-bà, sanh về Cực Lạc, được Bất thoái chuyển, thẳng đến thành Phật mới thôi. Nó rộng lớn như thế, đơn giản dễ làm như thế, nên những lời tán thán của Vĩnh Minh tất có dụng ý chứ không phải quá lời.

Hỏi : Phật, Tổ xuất thế vì việc độ sanh, việc lớn đã tỏ thì phát nguyện độ sanh, nay người đạt ngộ lại cầu sanh Tịnh độ, không đoái hoài đến người khác, đó không phải là sở nguyện của tôi !

Sư đáp : Ông cho rằng một khi tỏ ngộ là sạch hẳn cấu uế, được Bất thoái chuyển chăng? Không còn học Phật pháp, tu hành chứng quả nữa chăng? Liền ngang bằng chư Phật, vào sanh vào tử không bị chướng duyên trở ngại nữa chăng? Như vậy thì chư đại Bồ-tát tu Lục độ vạn hạnh trải qua hằng sa kiếp phải hổ thẹn với ông rồi ! Người xưa nói : “Bồ-tát còn mê khi cách ấm, Thanh văn còn muội lúc ra thai”, huống gì kẻ hiểu sơ, ngộ cạn thì làm sao tự cứu mình nổi? Giả sử cảnh giới mà ông đạt ngộ sâu xa, sở kiến cao minh, hành giải tương ưng đi nữa, nhưng chưa lên ngôi Bất thoái, lục dụng chưa chu viên, ở trong đời ác trược giáo hóa những kẻ cang cường, đó là điều khó làm được. Bởi vậy con thuyền không chắc chắn, mà chở nhiều người qua biển dữ, mình và người chết chìm là điều tất nhiên. Cho nên Vãng Sanh Luận ghi : “Vãng sanh cõi kia, được Vô sanh nhẫn rồi, vào lại sanh tử, cứu độ chúng sanh. Vì nhân duyên ấy, nên cầu sanh Tịnh độ”. Những bậc tiên thánh cũng nói : “Chưa chứng đắc vị Bất thoái chuyển thì không thể trà trộn độ sanh, chưa được Vô sanh pháp nhẫn thì phải thường không lìa Phật, thí như đứa trẻ thường chẳng xa mẹ, lại như chim non chỉ có thể chuyền cành”. Trong quốc độ này, bốn đường ác khổ, nhân quả đẩy đưa, ngoại đạo tà ma, thị phi vây bủa. Sắc đẹp, tiếng hay thường mê hoặc; ác duyên, ô trược mãi tổn thương, hiện đời chẳng có Phật để nương, lại bị cảnh duyên ấy loạn động, thì người mới đạt ngộ làm sao tránh khỏi muôn duyên làm trở ngại ! Bởi vậy, Thế Tôn ân cần khuyên họ cầu về Tịnh độ, đương nhiên là đúng. Vì Phật Di-đà kia đang thuyết pháp, cảnh duyên Cực Lạc thảy thanh tịnh. Còn nữa, nương theo Phật ấy, nhẫn lực dễ thành, chứng quả vị cao, liền được thọ ký, rồi sau giáo hóa chúng sanh, đến đi vô ngại.Thế nên, dù bậc thượng căn thượng trí vẫn nguyện vãng sanh, huống ông là kẻ trung căn hạ trí mới tỏ ngộ Phật pháp ! Lẽ đâu ông không thấy trong Kinh Quán Phật Tam-muội, Văn-thù tự nêu túc duyên, đó là chứng Niệm Phật Tam-muội, sẽ sanh Tịnh độ. Thế Tôn thọ ký cho Ngài rằng : “Ông sẽ vãng sanh thế giới Cực Lạc đó ư?”. Ông lại không thấy trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Phổ Hiền khuyên Thiện Tài Đồng tử, Hải hội đại chúng, dùng mười Đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc? Ông lại không thấy trong Kinh Lăng-già, Phật thọ ký cho Long Thọ bằng bài kệ : “Trong nước Nam Thiên Trúc, Tỳ-kheo đại danh đức, tên gọi là Long Thọ, hay phá tông Hữu Vô, đem pháp Đại thừa ta, soi sáng khắp thế gian, chứng Sơ Hoan Hỷ Địa, vãng sanh nước An Lạc chăng?” Ông lại không thấy trong Khởi Tín Luận, Bồ-tát Mã Minh phát nguyện cầu sanh; trong Vô Lượng Thọ Luận, Bồ-tát Thiên Thân cũng phát nguyện cầu sanh; trong Kinh Đại Bảo Tích, Thế Tôn ấn khả cho Tịnh Phạn Vương và 70.000 người trong dòng họ Thích vãng sanh Cực Lạc, trong Kinh Thập Lục Quán, Thế Tôn chỉ cho phu nhơn Vi Đề và 500 thị nữ cùng quán Di-đà. Hơn nữa, Tịnh Phạn, Vi Đề … đều là người hiện đời chứng đắc Vô sanh nhẫn, những người như họ ở Tây Trúc không thể nào kể hết. Đông Độ ta có Lô Sơn Viễn Công, các Tôn giả của các tông như Thiên Thai, Hiền Thủ, độ mình độ người, nào tăng nào tục vãng sanh Tịnh độ thật không kể xiết. Quốc vương Tịnh Phạn là cha của Phật, cả 70.000 người trong dòng họ Thích là quyến thuộc của Phật, nếu việc vãng sanh Tịnh độ không có lợi ích, thì Phật khuyên họ vãng sanh làm gì ! Những người chứng đắc Vô sanh nhẫn Phật mới cho phép độ sanh, còn như Tịnh Phạn và quyến thuộc đã được sức Nhẫn này rồi mà Phật vẫn còn thọ ký vãng sanh, như vậy việc Như Lai hộ trì, bảo dưỡng cho họ lẽ đâu không sâu xa chăng?

Phần đông Thiền giả thời nay không cứu xét liễu nghĩa sâu xa của Phật, chẳng biết cơ huyền của Đạt-ma, lòng không trí rỗng, sanh ra cuồng vọng. Thấy người tu Tịnh độ thì chê cười bảo rằng, cái học ấy dành cho kẻ ngu phu ngu phụ làm, quả thật là kẻ dốt nát. Tôi từng luận về sự nhầm lẫn này, rằng ngu phu ngu phụ như Văn-thù, Phổ Hiền, Long Thọ, Mã Minh … chẳng mê lầm chánh đạo, chẳng mất căn lành, chẳng tan thân mất tuệ, chẳng bại hoại Phật chủng. Những kẻ tạo nghiệp phỉ báng pháp, mạt sát chư Thánh hiền, Phật tổ thấy họ thật đáng xót thương. Bởi vậy, Hòa thượng Vĩnh Minh phơi bày tâm can, chủ trương Tịnh độ, mong họ tự cứu bản thân mình. Ngài chuyên tâm hành trì, giáo hóa kẻ khác, nên lúc lâm chung biết trước giờ mất, lại có muôn ngàn điềm lành ứng hiện, toàn thân thành xá-lợi. Đâu chỉ có ngài Vĩnh Minh, mà những Thiền sư như : Tử Tâm Ngộ Tân, Chơn Hiết Thanh Liễu, Thiên Y Nghĩa Hoài, Viên Chiếu Tông Bản, Từ Thọ Hoài Thâm, Nam Nhạc Tuệ Tư, Tịnh Từ Đại Thông, Thiên Thai Hoài Ngọc, Lương Đạo Trân, Đường Đạo Xước, Tỳ Lăng Pháp Chân, Cô Tô Thủ Nột, Bắc Giản Giản, Thiên Mục Lễ … đều là bậc tông tượng trong Thiền môn, mật tu hiển hóa, xiển dương yếu chỉ Tịnh độ, không hẹn mà gặp, nào đâu chỉ có ngần ấy vị.

Tôi từng nghe một vị Tôn túc nói : “Tông phái của 5 nhà, Thiền tăng trong thiên hạ, ngộ và chưa ngộ, không một người nào chẳng về Tịnh độ”. Tôi hỏi nguyên do, vị Tôn túc ấy đáp : “Như Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải là đệ tử chân truyền của Giang Tây Mã Tổ. Tòng lâm trong thiên hạ đều nương Ngài mà dựng lập, từ xưa đến nay không ai dám bàn cãi phải quấy. Thanh quy trong Thiền môn đều nương Ngài mà hành trì, từ trước đến nay không ai dám trái phép tắc ấy. Hãy xem trong Thanh Quy đó nói về việc tụng niệm cho Tăng bị bệnh, trong ấy ghi : Nhóm chúng đồng thanh xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, hoặc trăm tiếng, hoặc ngàn tiếng, rồi hồi hướng phục nguyện rằng : “Các duyên hết sạch, sớm được nhẹ nhàng, mệnh lớn khó thoát, về thẳng Lạc bang”. Lại nữa, phần tẩm liệm tống táng chư tăng, đại chúng tụng niệm và hồi hướng phục nguyện rằng : “Thần siêu cõi Tịnh, nghiệp dứt trần ai, hoa sen thượng phẩm mở bày, Phật liền thọ ký đời này vãng sanh”. Đến như lúc trà-tỳ, chư tăng vẫn không làm cách thức nào khác, mà chỉ thỉnh Duy-na cao giọng xướng “Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật”. Xướng như vậy 10 lần, đại chúng hòa theo 10 lần, thì gọi là 10 niệm. Xướng xong lại hồi hướng rằng : “Mười niệm vừa rồi, trợ giúp vãng sanh”, đó không phải chỉ quy về Tịnh độ thì là cái gì?

Từ Bá Trượng đến nay, phàm lễ nghi tống táng chư tăng đều làm theo cách thức ấy. Thế thì “Tông phái của năm nhà, Thiền tăng trong thiên hạ, không có người nào không về Tịnh độ” lẽ đâu không đúng chăng ! Phải biết bản hoài lập pháp của Tổ sư Bá Trượng đâu phải không có căn cứ. Ông đã không hiểu được ý Tổ sư, lại không tự phát tâm tỉnh giác, vọng cho người đạt ngộ không nguyện vãng sanh, thì sở chấp của Thiền giả trong thiên hạ, thật chẳng ai bằng ông !

Hỏi : Đồng Cư Tịnh Độ có rất nhiều loại, nay chỉ nêu Cực Lạc mà không tán thán hết các cảnh duyên thù thắng khác là sao vậy?

Sư đáp : Kinh ghi : “Chúng sanh cõi ấy không có các khổ, chỉ thọ nhận mọi an vui, nên có tên là Cực Lạc”. Nay lấy Ta-bà so sánh với cõi kia, thì cõi này hình thể máu thịt, có sanh tất có khổ; cõi kia thì do hoa sen hóa sanh, nên không có sự thống khổ của Sanh (Sanh khổ). Cõi này thì thời gian dần hết, ngày một già suy; cõi kia thì nóng lạnh như nhau, nên không có sự thống khổ của Già (Lão khổ). Cõi này thì bốn đại khó điều phục, sanh nhiều bệnh hoạn; cõi kia thì thân thể sạch thơm, nên không có sự thống khổ của Bệnh (Bệnh khổ). Cõi này sống đến 70 là hiếm, vô thường mau chóng; cõi kia thì thọ mạng vô lượng, nên không có sự thống khổ của Chết (Tử khổ). Cõi này thì thân tình luyến ái, có ái ắt có chia lìa; cõi kia không có cha mẹ vợ con, nên không có nỗi khổ quyến thuộc chia lìa (Ái biệt ly khổ). Cõi này thì cừu địch oán thù, có oán tất gặp nhau; cõi kia toàn là chúng hội Thượng thiện, nên không có nỗi khổ oán thù gặp nhau (Oán tắng hội khổ). Cõi này thì khốn khổ đói lạnh, tham cầu không chán; cõi kia y phục trân bảo, thọ dụng liền có, nên không có nỗi khổ mong cầu không được toại nguyện (Cầu bất đắc khổ). Cõi này hình hài hôi hám, các căn khuyết tật; cõi kia tướng mạo đoan nghiêm, thân có quang minh, nên không có nỗi khổ năm ấm lẫy lừng (Ngũ ấm xí thạnh khổ). Cõi này thì luân hồi sanh tử, cõi kia hằng chứng Vô sanh. Cõi này có thống khổ 4 đường, cõi kia không có tên 3 ác. Cõi này hầm hố gò nổng, gai góc làm rừng, đất đá núi non, đầy dẫy dơ uế; cõi kia vàng ròng làm đất, cây báu ngút trời, lầu bằng bảy báu, hoa khoe bốn màu. Cõi này Song Lâm đã diệt, Long Hoa chưa khai; cõi kia Phật Vô Lượng Thọ hiện đang nói pháp. Cõi này Quan Âm, Thế Chí chỉ có danh suông, cõi kia hai Đại sĩ này thường làm bạn tốt. Cõi này quân ma ngoại đạo, nhiễu loạn chánh tu; cõi kia Phật giáo hóa cả, chẳng thấy ma mị. Cõi này nữ giới yêu kiều mê hoặc người tu, cõi kia chánh báo thanh tịnh không có người nữ. Cõi này ác thú lỵ mị, tiếng tà rộn vang; cõi kia nước chim cây rừng đều tuyên diệu pháp. So sánh hai cõi, cảnh duyên khác xa, mà sự thù thắng ở Lạc bang vô lượng vô biên, không sao kể hết. Cảnh thù thắng đó có thể nhiếp phục chúng sanh giữ tâm thường tịnh. Duyên thù thắng ấy thường hay giúp sức cho người tu. Tuy Đồng Cư Tịnh độ có rất nhiều loại, nhưng chỉ có Cực Lạc đầy đủ thắng duyên để tu hành, nên chỉ nêu Cực Lạc.

Hỏi : Một đời tạo ác, lâm chung niệm Phật, đới nghiệp vãng sanh, lại không thoái chuyển, nguyện lực Phật Di-đà thật chẳng thể nghĩ bàn. Vậy thì lúc còn sống tôi làm muôn việc thế gian, đợi đến lúc lâm chung, sau đó mới niệm Phật được không?

Sư đáp : Khổ thay ! Khổ thay ! Sao ông lại nói những lời ngu si lầm lẫn đến thế ! Tỳ sương, rượu độc là chất độc trong các thứ độc, nay những lời ông nói càng độc hơn các chất độc ấy nữa, không những làm mình lầm lạc mà còn làm cho thiên hạ cũng mê lầm. Ông phải biết rằng, phàm phu ngu muội lâm chung niệm Phật đều nhờ nhân duyên thiện căn phước đức từ trước, gặp được Thiện tri thức, mới được niệm Phật. Những người may mắn này trong ngàn muôn người chưa chắc có một. Ông cho rằng đến lúc lâm chung ai ai cũng được may mắn đó ư ! Ông không thấy Quần Nghi Luận ghi : Trong thế gian có 10 hạng người lâm chung không thể niệm Phật :

Không gặp được bạn tốt khuyên phát tâm niệm Phật.

Nghiệp khổ bức bách thân tâm.

Bạo bịnh cấm khẩu.

Tâm điên loạn, không chú tâm quán tưởng.

Gặp nạn nước lửa, hốt hoảng không chí thành.

Gặp phải sói lang, lại không có bạn tốt.

Lâm chung gặp bạn ác làm bại hoại tín tâm.

Bội thực ngộ độc, hôn mê đến chết.

Lâm trận đánh nhau trúng tên trúng đạn ngã chết đột ngột.

Bị rơi từ trên cao xuống tan thân mất mạng.

Đó là 10 trường hợp mà ai ai cũng thấy cũng nghe. Không luận là Tăng tục nam nữ, ai cũng có thể gặp phải. Hoặc do nghiệp đời trước đẩy đưa, hoặc do nghiệp đời này chiêu cảm mà đột ngột xuôi tay, đường trước mịt mờ không thể trốn chạy. Lại không phải là Thánh nhân chứng Túc mạng thông thì ông làm sao biết lâm chung có nghiệp hay không nghiệp? Lại không phải là người có Tha tâm, Thiên nhãn thì làm sao biết mình lúc lâm chung chết một cách nhẹ nhàng hay đớn đau khổ sở.

Nếu không may gặp phải 1 trong 10 ác duyên ấy liền nhắm mắt xuôi tay, lúc ấy dẫu Phật sống vây quanh cũng không cách nào cứu thoát ông được. Ông phải theo nghiệp thọ báo, rớt trong 8 nạn 3 ác, chịu khổ khôn cùng, chẳng biết lúc nào mới được nghe danh hiệu Phật. Khi đã không nghe thì càng tạo vô vàn ác nghiệp. Hoặc gặp phải bệnh nhẹ mà chết cũng chưa hẳn thoát khỏi rừng kiếm phanh thây, bốn đại tan nát. Như con rùa mới chui ra khỏi vỏ, con cua trôi giạt ở biển khơi, thống khổ bức bách, hoảng sợ vô cùng làm sao niệm Phật nổi? Giả sử ông không bịnh mà chết, nhưng hoặc do duyên đời chưa dứt, niệm đời chưa quên, tham sống sợ chết, nhiễu loạn thân tâm chẳng khác thế tục, lại việc nhà chưa xong, hậu sự chưa quyết, vợ khóc con than, muôn ngàn lo lắng làm sao niệm Phật nổi? Giả sử trước lúc chết chỉ có bịnh nhẹ đau đớn thân mình, chịu đau chịu khổ, gào khóc rên la, cầu thầy tìm thuốc, cầu cúng sám hối, muôn việc rối bời thì làm sao niệm Phật nổi? Giả sử lúc chưa bịnh nhưng tuổi tác già nua, tướng suy hiện rõ, khốn khổ vô cùng, sau than lo lắng, lúc đó chỉ lo chống đỡ cái thân già còn không xong thì làm sao niệm Phật nổi? Giả sử lúc chưa già chính là lúc sức lực dồi dào, niệm Phật tốt nhất, nhưng biết bao người cuồng tâm chưa dứt, việc đời bủa vây, chạy Đông tìm Tây, suy xằng nghĩ bậy, nghiệp thức mang mang thì làm sao niệm Phật nổi? Còn như ông thanh tịnh tự tại, có chí tu hành, nhưng với mọi thứ trong thế gian soi không tỏ, buông không ra, nắm chẳng vững, ngồi chẳng lâu, chợt gặp một vài cảnh giới hiện tiền, chủ nhân lập tức theo cảnh đảo điên thì niệm Phật sao được?

Ông hãy xem người khác lúc già bịnh, khi tráng niên, lúc an nhàn, nếu có một việc nhỏ bám víu nơi tâm thì đã không niệm Phật được, huống gì đợi đến lúc lâm chung ! Còn như ông, trọn đời làm sự nghiệp thế gian, quả thật là người ngu si cùng cực, phát ngôn những lời lầm lạc vô cùng. Ta dám đoan chắc ông dụng tâm lầm lạc mất rồi ! Vả lại việc đời như mộng như huyễn, như bóng như bọt, không có gì là sự thật, chẳng việc nào thay thế được sống chết đâu ! Giả sử ông xây dựng nhiều chùa, nuôi nhiều Tăng thường trụ, mong cầu danh lợi, kết thân với kẻ quyền thế, giàu sang, ông cho đó là làm được nhiều Phật sự tốt mà không biết mình đã hủy phạm Như Lai, chẳng thấu đạt gốc đạo. Dựng nhiều già-lam, lại thêm giữ giới, nhưng phải biết rằng công đức hữu vi có nhiều lầm lỗi, chùa lớn chưa xong, địa ngục đã thành, sống chết chưa tỏ, đều thành gốc khổ, bỗng chốc xuôi tay, vừa mới chịu khổ mới hay rằng mọi việc làm trong lúc bình sinh toàn là rừng Chiên-đàn lại thêm gỗ mục, trong rừng kiếm lại thêm gươm dao, ca-sa tuột khỏi thân thì vạn kiếp khó mặc lại được. Sắt đá mà nghe cũng phải rơi lệ. Tổ sư mỏi miệng khuyên người như vậy, lẽ đâu chấp nhận cho ông một đời bon chen, đợi đến lúc lâm chung mới niệm Phật? Ông phải biết rằng, con người ở đời sống được bao lâu, chỉ trong tích tắc là nhắm mắt lìa đời. Cần phải ngay trong lúc chưa già chưa bịnh mà gội rửa thân tâm, buông bỏ mọi việc đời, được một lúc lắng lòng, niệm được một danh hiệu, có một chút công phu, tu một chút Tịnh nghiệp. Cứ thế ngày lại ngày dành thời gian tu tập, thì lúc lâm chung, chết nhẹ nhàng hay khổ sở ta đều biết được, đường trước của ta, bao la bằng phẳng. Nếu không như vậy, thì ngày sau ông có hối cũng muộn rồi.

Trích dịch từ Tịnh Độ Tùng Thư
Thích Đồng Ngộ
Trích: Tập San Suối Nguồn số 08 (TVHQ)

Niệm Phật Công Đức phần giới thiệu

Niệm Phật Công Đức phần giới thiệuLời tác giả: Phật giáo là sự giáo dục tột cùng viên mãn của Đức Phật đối với chúng sinh trong chín pháp giới.

Tất cả các kinh mà Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giảng trong 49 năm, nội dung chính là thuyết minh về thật tướng của vũ trụ nhân sinh. Nhân sinh chính là bản thân mình, còn vũ trụ là môi trường đời sống của chúng ta. Bậc có tri giác gọi là Phật, Bồ-tát, không có tri giác gọi là phàm phu. Tu hành chính là sửa đổi cách nhìn, cách nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm của chúng ta đối với vũ trụ nhân sinh.

Cương lĩnh tu hành của Phật giáo là giác, chính, tịnh; giác mà không mê, chính mà không tà, tịnh mà chẳng nhiễm. Đồng thời nương vào ba môn học Giới, Định, Huệ để đạt đến mục tiêu đó.

Nền tảng của tu học là Tam phước, tiếp người y cứ Lục hòa, ứng sự tu theo Lục độ, tuân thủ hạnh nguyện Phổ Hiền, hướng tâm về Tịnh Độ thì việc giáo hóa của Đức Phật có thể hoàn thành.

Pháp sư Tịnh Không

Lời giới thiệu

Nam-mô A-di-đà Phật!

Sáu chữ hồng danh này được truyền tụng khắp nhân dân Việt Nam, từ nông thôn đến thành thị, ngay cả đi vào thi ca văn học. Thánh hiệu này là câu nói thân thuộc trên đầu miệng mọi người. Gặp mặt chào nhau A-di-đà Phật. Gặp việc bất trắc thảng thốt cũng A-di-đà Phật!

Nhưng mấy ai niệm Phật mà có ước vọng mục đích việc niệm Phật của mình như thế nào. Người ta niệm Phật theo quán tính mà không biết mình niệm Phật để làm gì, với mục đích gì?

May thay! Hòa thượng Tịnh Không đã giảng giải cặn kẽ cho chúng ta mọi vấn đề về pháp môn niệm Phật.

Đọc trong quyển sách này, chúng ta sẽ biết vì sao chúng ta niệm Phật, phải niệm Phật như thế nào và được những lợi ích công đức ra sao?

Quyển “Công đức niệm Phật” này nguyên là băng giảng của Hòa thượng Tịnh Không được cư sĩ Trần Truyền Tịnh ghi chép chỉnh lý lại và sư cô Thích nữ Tắc Phú phát tâm dịch ra Việt ngữ. Nội dung bài giảng rất bổ ích cho các hành giả niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ. Đọc xong, chúng ta thấy lòng tin càng củng cố, ai cũng có thể niệm Phật và có phần cầu vãng sanh Tịnh độ được.

Tôi xin chân thành tán thán công đức pháp thí này và nguyện cầu:

Nhà nhà đều niệm Phật
Người người đều niệm Phật
Cực Lạc được sinh về
Đồng lên ngôi bất thoái.

Kính cẩn giới thiệu

Tu viện Huệ Quang, ngày vía Phật Di Đà
Năm Đinh Hợi-PL 2551
HT-Thích Minh Cảnh

MỤC LỤC – CÔNG ĐỨC NIỆM PHẬT

I. PHẬT PHÁP LÀ GIÁO DỤC, CHẲNG PHẢI LÀ TÔN GIÁO, CHẲNG PHẢI LÀ TRIẾT HỌC.

1. Phật pháp là giáo dục.

2. Mục tiêu giáo dục của Phật pháp: Vô thượng Chính đẳng Chính giác.

3. Đột phá chướng ngại của không gian và thời gian.

4. Pháp môn niệm Phật rất dễ thành tựu.

II. TRỌNG TÂM PHẬT PHÁP HẠT NHÂN PHẬT PHÁP: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT.

1. Vui vẻ học tập – Học để ứng dụng.

2. Kết tập và dịch kinh điển Phật.

3. Tính tất yếu và nguyên tắc cần tuân thủ của việc hội tập bản kinh Vô Lượng Thọ.

4. Pháp môn niệm Phật chẳng phải điều mà người tầm thường có thể tin.

5. A-di-đà Phật là đỉnh cao của Phật pháp.

III. HIẾU DƯỠNG CHA MẸ, TÔN KÍNH SƯ TRƯỞNG LÀ CĂN BẢN TU HÀNH TRONG PHẬT PHÁP.

1. Sinh mệnh đổi thay theo nhân quả. Nhân quả là chân lý.

2. Thâm tín Tịnh Độ thật không dễ dàng.

3. Đạo tràng – Tòng lâm thời xưa, truyền hình vệ tinh thời nay.

4. Nền tảng của Tịnh Độ là hiếu dưỡng cha mẹ và tôn kính sư trưởng.

IV: TÂM HỌC PHẬT VỚI NGUYỆN-GIẢI-HÀNH

1. Đạo Phật là sự thực tiễn của Tam quy y “Giác, Chính, Tịnh”.

2. Năm năm học giới, vâng theo lời dạy của Sư trưởng.

3. Tôn Phật A-di-đà làm Thầy.

4. Tất cả pháp từ tâm sinh, niệm Phật rốt ráo thành Phật.

5. Niệm Phật, hiện đời được sống lâu, thanh tịnh, an vui.

PHỤ LỤC

I. PHÁP MÔN THÙ THẮNG.

1. Đức Phật A-di-đà – Công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn.

2. Yếu quyết niệm Phật là thu nhiếp cả sáu căn.

3. Đại sư Ấn Quang truyền pháp Tâm Ấn.

2. Tinh yếu pháp mười niệm.

II. TU HÀNH.

1. Người phụ nữ ở gia đình làm cách nào để tu Bồ-tát đạo trong đời sống hằng ngày.

III. THẬT CHỨNG.

Truyện thứ nhất: Dõng mãnh tinh tấn, vãng sinh bất thoái.

Ký sự vãng sinh của cư sĩ Vân Liên ở Bành Tô Úc Châu.

Truyện thứ hai: Viên mãn bồ-đề, ghi lại việc vãng sinh của Tiên mẫu Lý thái phu nhân.

Truyện thứ ba: Hiếu cảm thiên địa. Tấm lòng con gái.

Sự tích niệm Phật vãng sinh của cư sĩ Lạc Toàn Thông.

Niệm Phật Công Đức phần giới thiệu
Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục

Niệm Phật Công Đức phần phụ lục

Niệm Phật Công Đức phần phụ lụcPHỤ LỤC

I. PHÁP MÔN THÙ THẮNG.

1- Đức Phật A-di-đà – Công đức của danh hiệu không thể nghĩ bàn.

Đại sư Liên Trì nói:

– Chuyên trì danh hiệu Phật A-di-đà, thù thắng hơn trì chú vãng sinh, cũng hay hơn trì những chú khác, cũng vượt hơn tất cả các công đức khác.

– Thù thắng hơn trì chú vãng sinh là: Trì chú 30 nghìn biến mới thấy được Đức Phật A-di-đà, còn trì danh hiệu Phật thì một ngày một đêm liền thấy Phật.

Bài chú Vãng sinh ghi: Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng chú 37 biến, có thể diệt được tội ngũ nghịch[36]; trì danh hiệu Phật thì chí tâm niệm một tiếng Phật liền diệt được 80 ức kiếp tội nặng trong sinh tử.

– Thù thắng hơn các chú khác nghĩa là: Chuyên trì danh hiệu, tức là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú. Nhờ 10 niệm được vãng sinh, vãng sinh tức không còn thoái chuyển, oai linh chẳng lường được, đó là đại thần chú.

– Nhất tâm không loạn, đoạn vô minh, thấy tự tính, là đại minh chú.

– Chứng Vô sinh nhẫn, trở lại Ta bà, độ hết chúng sinh, là vô đẳng đẳng chú.

– Niệm Phật thù thắng hơn công đức khác, nghĩa là: Lục độ vạn hạnh, vô lượng pháp môn, chuyên trì danh hiệu, gồm thâu hết thảy, vì các pháp không ngoài một tâm.

Nguyện cho đệ tử Tịnh Độ, chuyên giữ Tín Nguyện, luôn được nhất tâm.

Bậc Cổ đức, nhiều vị chuyên tu pháp môn khác, thường chuyển sang tu niệm Phật. Huống gì người chuyên tu niệm Phật, lẽ nào thay đổi những điều mình đã gìn giữ mà bỏ theo pháp môn khác ư!

Nam mô A-di-đà Phật!

2. Yếu quyết niệm Phật là thu nhiếp cả sáu căn.

Đại sư Ấn Quang khai thị: “Thu nhiếp sáu căn là bí quyết của niệm Phật”. Khi niệm Phật cần phải nhiếp tai lắng nghe, từng chữ từng câu rõ ràng, chớ để đi qua phí uổng. Danh hiệu Phật từ tâm sinh, tiếng từ miệng ra, lại vào từ lỗ tai, tiếp nối nhau không gián đoạn. Vừa khởi vọng niệm, liền thu tâm về niệm Phật, nhiếp tai lắng nghe, không cho vọng niệm tiếp nối. Như thế, tất cả tạp niệm dần dần tiêu diệt, công phu tự nhiên thành tựu.

Pháp sư Tịnh Không nêu rõ: Vọng niệm quá nhiều thật phiền não, xưa nay rất khó mà ổn định được một niệm. Căn bệnh lớn của chúng ta là tâm không ổn định, tâm luôn tán loạn, loạn tưởng hồ đồ không thể an định, hễ tưởng bệnh liền thành bệnh, tưởng già liền biến thành già. Mục đích của niệm Phật chính là phải nhiếp phục được những vọng tưởng phiền não này.

Pháp sư còn nhiều lần khuyến khích các bạn đồng tu: Công đức của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn. Trong tám mươi bốn nghìn pháp môn tu thì pháp môn niệm Phật thích hợp nhất với căn cơ chúng sinh thời mạt pháp. Pháp môn niệm Phật còn xem “Trì danh hiệu Phật” là thù thắng nhất. Chúng ta cần phải vận dụng tâm “chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chính giác, từ bi” để niệm Phật thì một câu danh hiệu Phật này mới có thể tương ưng, mới có thể được uy thần bản nguyện của Đức Phật A-di-đà gia hộ, mới là niệm chân thành đúng đắn!

Lại nói: Biết rõ là hiểu lý, là học vấn, buông bỏ mới là công phu chân thật; chỉ cần thật sự chịu buông bỏ; vứt bỏ vọng niệm, chính niệm tự nhiên có mặt. Điều đó Cổ đức gọi là: “Chỉ cầu trừ vọng, cần gì tìm chân”. Nên biết, niệm Phật tức là dùng một chính niệm dừng vô số vọng niệm, dùng một niệm thanh tịnh công phu thay đổi vô số vọng niệm. Nếu thật sự có thể thực hành được niệm chân thành, trong tất cả thời khắc danh hiệu Phật A-di-đà thường ở trong tâm thì tự nhiên quên đi cái Ngã. Vì quên Ngã nên khắp nơi đều được không ngăn ngại. Vì Đức Phật A-di-đà thường ở trong tâm, nên công phu thành tựu, đạt đến sự trong sáng tự tại.

Trong Tâm Thanh Lục của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng đã nêu rõ: “Chí tâm xưng niệm một câu Thánh hiệu A-di-đà này giống như luyện quặng sắt thành vàng; nghĩa là phải đào thải hết tất cả những tạp chất vốn có, loại bỏ sạch toàn bộ tất cả vọng tưởng phiền não. Nếu có thể như thế thì vàng đã luyện thành, không còn là quặng nữa”.

3. Đại sư Ấn Quang truyền pháp Tâm Ấn.

Đôn luân tận phần

Nhàn tà tồn thành

Tín Nguyện niệm Phật

Cầu sinh Tịnh Độ.

“Đôn luân tận phần”, “Đôn” nghĩa là thành tâm hoà thuận. “Luân” chỉ cho đạo đức của con người. “Đôn luân” chính là xử sự chân thành thuận hoà giữa con người với con người. Đại sư khuyên bảo chúng ta: Cần phải dốc lòng thực hành nghĩa vụ và trách nhiệm con người. Trách nhiệm và nghĩa vụ này chính là bổn phận của mỗi người nên làm trọn vẹn. Vậy những cái nào mà bổn phận làm người phải hết lòng? Chính là luân thường, cũng chính là năm mối quan hệ: Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Nếu năm mối quan hệ này đều có thể làm tốt thì gia đình mới có thể hạnh phúc; xã hội, quốc gia mới có thể ổn định.

Quan hệ vua tôi: Đây là mối quan hệ khá tốt giữa quan lớn và thuộc hạ, hoặc là mối quan hệ giữa chủ và nhân công. Phải làm sao cho tốt đẹp? Cũng chính là: “Vua sai bảo thần vì lễ, thần phụng sự vua vì trung”. Chủ đối với nhân công phải biết tôn trọng và quan tâm đến họ. Thuộc hạ hoặc nhân công đối với những việc mà cấp trên giao cho, phải trung thành đảm nhiệm, hết lòng làm việc, đó chính là đạo quân thần cư xử với nhau.

Đạo cha con: Người cha nên lấy bản thân làm nguyên tắc, làm tấm gương tốt đẹp cho con cái, quan tâm đến con cái và nghiêm túc dạy bảo chúng, khiến cho nó trở thành người tốt đẹp, người hiền lương, đó mới là lòng yêu thương đúng đắn. Nhờ vậy, phận làm con mới có thể cảm niệm được ân dạy dỗ của cha mẹ, tự nhiên sẽ hiếu kính cha mẹ.

Đạo vợ chồng: Đây là then chốt hạnh phúc của gia đình, cũng là cầu nối ổn định của xã hội. Vợ chồng hoà thuận, gia đình mới có hạnh phúc đáng kể, cũng mới có được một thế hệ kiện toàn ưu tú. Vì vậy, làm người chồng cần phải có trách nhiệm với gia đình, có tình nghĩa với vợ con, có ân nghĩa với cha mẹ, con cái. Người làm vợ cũng cần phải hòa thuận, dịu dàng, giúp chồng dạy con, đóng vai một người vợ hiền, một nàng dâu thảo, một người mẹ tốt.

Đạo anh em: Anh em, chị em giống như chân tay. Nếu như anh chị em yêu thương nhau, quan tâm lẫn nhau, không để cho cha mẹ lo lắng, đó cũng là sự biểu hiện của lòng hiếu thảo trọn vẹn.

Đạo bằng hữu: Cùng bạn bè qua lại phải kết thiện duyên rộng rãi, giảng cầu tín nghĩa, dùng tâm chân thành giao hảo, chắc chắn có thể được tình hữu nghị lâu dài.

Năm mối quan hệ trên chính là căn bản của luân thường. Năm thứ căn bản này là then chốt hiện tại lớn nhất cho hạnh phúc gia đình và ổn định xã hội đất nước.

“Nhàn tà tồn thành”. “Nhàn” nghĩa là ngăn chận, “Tà” chỉ cho sự gian ác. “Nhàn tà” là ngăn ngừa sự gian ác xâm nhập. Ngay trong đời sống thường ngày, cần phải luôn giữ gìn tâm thanh tịnh, tĩnh tọa tư duy chính mình có sai sót gì không, đồng thời ngăn chặn tất cả tà nhiễm.

“Tồn thành” là bảo vệ gìn giữ tâm tính trung thành, tiếp đãi người, xử lý công việc thường ngày phải giữ tâm cung kính chân thành, lâu ngày có thể đạt đến chỗ chân thành ở bên trong hiện ra bên ngoài. Khi bàn giao sự việc cho người, tất nhiên sẽ nhận được sự yêu thương và tôn kính sâu sắc của người khác.

“Tín nguyện niệm Phật, cầu sinh Tịnh Độ”, niềm tin chân thành đúng đắn về Đức Phật A-di-đà, thế thì chỉ cần dùng tâm chân thành, giữ nó để niệm Phật mãi mãi, chắc chắn bạn có thể vãng sinh về thế giới Cực Lạc, thân cận Đức Phật A-di-đà và các bậc thiện tri thức, cùng làm học trò của Đức Phật A-di-đà.

2. Tinh yếu pháp mười niệm.

Xin đem tinh yếu pháp mười niệm của ngài Tịnh Không đã nói, làm thành quy tắc thường lệ cho những người học tông Tịnh Độ, đời nay đời sau tự tu hoặc tu chung.

“Tự tu” chính là phương pháp niệm Phật, mỗi ngày 9 lần, mỗi lần niệm 10 câu danh hiệu Phật. Mỗi sáng thức dậy và trước khi ngủ đều niệm một lần. Ba bữa ăn trong ngày cũng đều niệm một lần. Buổi sáng trước khi bắt đầu làm việc và khi kết thúc công việc đều niệm một lần. Buổi chiều bắt đầu làm việc và khi kết thúc công việc đều niệm một lần, tổng cộng 9 lần. Mỗi lần xưng niệm mười câu bốn chữ hoặc sáu chữ danh hiệu Phật A-di-đà. Đã có thời khóa thường ngày nhất định nên chiếu theo đó mà thực hành.

“Tu chung”, ở những nơi giảng kinh, hội họp, hay chỗ ăn uống v.v… những cuộc họp không có quy tắc, nghi thức cố định, trong khi bắt đầu làm việc chung thì thực hành pháp mười niệm này, cũng tức là theo quy ước đại chúng chắp tay đồng thanh xưng niệm mười câu “Nam-mô A-di-đà Phật”. Sau đó, tiến hành các hoạt động thích hợp như giảng kinh, hội họp, dùng cơm v.v…

Theo pháp mười niệm tự tu và tu chung này, mỗi pháp có sự lợi ích thù thắng riêng của nó. Thử nêu một vài thí dụ sau đây:

1. Pháp này đơn giản dễ thực hành, dùng thời gian ít mà thu được hiệu quả lớn, quả thật là thiết yếu, có thể kéo dài lâu và có thể mở rộng.

2. Nó là phương pháp hữu hiệu cho việc “Phật hóa gia đình”. Ví dụ: Thực hành nó lúc ăn cơm trong gia đình thì những thành viên cả nhà có người tin, có người không tin đều nhờ nó được nhiếp trì đầy đủ. Hơn nữa có thể ảnh hưởng đến bạn bè làng xóm, phổ cập được lợi ích rộng lớn cho xã hội hiện tại.

3. Vì nó đơn giản dễ thực hành, một ngày 9 lần, từ sáng đến tối, danh hiệu Phật không gián đoạn. Trong sinh hoạt một ngày, liên tục niệm Phật, ngày này sang ngày khác. Nếu có thể thực hành lâu như thế thì tâm tình, khí chất của người thực hành sẽ dần dần thanh tịnh, tín tâm và pháp lạc phát sinh, được phước báo lớn vô cùng.

4. Như có thể tùy thuận vui hòa, xưng niệm mười câu danh hiệu Phật thì sẽ diệt trừ được tạp nhiễm, làm trong sáng tâm niệm, lắng đọng tâm thần, dốc lòng học đạo, những việc làm dễ thành tựu, gặp được những điều lành, nhờ Phật gia hộ v.v… thành tựu được công đức không thể nghĩ bàn.

5. Tự tu và tu chung: Nó sẽ giúp đỡ nhau, dung thông nhau, tư lương hội tụ, không những nắm chắc đường vãng sinh của một người mà đại nghiệp bồ-đề của cộng đồng cũng dễ thành tựu.

6. Pháp này có thể dùng hai tên để gọi:

“Tịnh nghiệp gia hành pháp mười niệm”[37], đây là nói đối với mình có sự tu tập thời khóa cố định, vì pháp môn này có sẵn trong thời khóa tu nên thực hành thêm pháp mười niệm.

“Giản yếu tất sinh thập niệm pháp”[38]. Đa số chỉ cho những người tu pháp môn Tịnh Độ hiện tại và sau này không có thời khóa cố định. Vì xã hội ngày nay luôn thay đổi, bận rộn, vội vàng, nên gây ra nhiều trở ngại khó khăn. Còn pháp môn này dễ hội tụ tư lương, tín-nguyện-hành, dễ đạt đến viên mãn. Hơn nữa nó cũng rất phù hợp với tiêu chuẩn “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm không gián đoạn”.

Do thời gian mỗi lần niệm Phật ngắn ngủi nên dễ nhiếp tâm và không sinh biếng nhác. Họ đem công phu tu hành chín lần niệm Phật phân bố đều, xuyên suốt trong cả ngày thì thân tâm trọn ngày không thể không thành Phật, cũng tức là niệm Phật hóa đời sống trọn ngày, tức là niệm Phật làm thay đổi cuộc sống.

Tóm lại, pháp này đơn giản, nhẹ nhàng, không một chút khó khăn trở ngại. Nếu như pháp môn này được lưu hành rộng rãi thì người tu học pháp môn Tịnh Độ rất may mắn! Chúng sinh đời sau cũng rất may mắn! Chư Phật đều hoan hỷ.

Nam mô A-di-đà Phật.

Năm 1994, ngày chư Phật hoan hỷ, Hội Tu Học Tịnh Độ tại Mỹ, tứ chúng đồng luôn kính khuyến.
II. TU HÀNH

1. Người phụ nữ ở gia đình làm cách nào để tu Bồ-tát đạo trong đời sống hằng ngày.

Hằng ngày làm công việc giống như nhau, nhất định sẽ cảm thấy rất chán, nhất là người phụ nữ chính trong gia đình, dường như mãi mãi không có một ngày rảnh rỗi, vì thế rất nhiều người đều cảm thấy khổ sở. Nếu như có thể thay đổi quan niệm sống thì sẽ thấy rất an vui. Trong quan niệm bình thường, mọi người luôn chấp có “ngã”. Có cái ta đang làm, ta rất khổ nhọc, vì sao ta phải làm thay cho họ? Càng nghĩ thì phiền não càng nhiều. Nếu người muốn học Bồ-tát đạo, phát đại thệ nguyện, phổ độ chúng sinh thì cách nghĩ, cách nhìn của họ sẽ không như thế.

Tu hành Bồ-tát đạo, thứ nhất phải Bố thí Ba-la-mật. Nữ tu Bồ-tát là một người nội trợ phục vụ trong gia đình, chính là tu Bố thí Ba-la-mật.

Bố thí có ba loại: Tài thí, pháp thí, vô úy thí.

Tài thí có nội tài và ngoại tài. Ngoại tài chỉ cho tiền bạc ở bên ngoài, cung cấp cho sinh hoạt của mọi người. Nội tài là dùng thể lực trí huệ của mình phục vụ cho mọi người. Người phụ nữ nội trợ trong gia đình có thể ngay trong công việc nhà mà hoàn thành trọn vẹn sáu Ba-la-mật. Bạn sẽ sắp xếp việc nhà gọn gàng ngăn nắp, sạch sẽ, khiến cho cuộc sống của mọi người thoải mái, làm cho láng giềng hâm mộ, đây là Trì giới Ba-la-mật. Trì giới chính là giữ phép tắc. Bạn có thể làm việc với tâm nhẫn nại, không mệt mỏi, không chán nản, tức là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Mỗi ngày còn phải đổi mới, hy vọng ngày mai làm việc tốt hơn ngày hôm nay, chính là Tinh tấn Ba-la-mật. Dù cho, hằng ngày làm rất nhiều công việc nhà nhưng cõi lòng vẫn thanh tịnh, mảy trần không nhiễm, tức là Thiền định Ba-la-mật. Trong tâm thanh tịnh thường sinh trí huệ, pháp hỷ sung mãn, đó là Bát-nhã Ba-la-mật. Thế là đã rõ: Hóa ra sáu Ba-la-mật của Bồ-tát chính là thành tựu viên mãn ở những việc lau ghế, quét nhà, giặt áo, nấu cơm.

Đây chính là học hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát đã được Thiện Tài đồng tử biểu đạt trong kinh Hoa Nghiêm.

Bạn làm tốt việc nhà, tức là làm tấm gương cho tất cả những người phụ nữ nội trợ trên thế gian, làm tấm gương cho tất cả những gia đình. Điều này có thể độ láng giềng, mở rộng hơn thì có thể ảnh hưởng đến xã hội, quốc gia và thế giới, cho đến tận cùng hư không, khắp cả pháp giới. Như thế mới biết nữ nội trợ Bồ-tát ở trong nhà làm các việc: quét nhà, lau bàn, nấu cơm, giặt áo chính là thực hành đại nguyện, đại hạnh độ tất cả chúng sinh trong tận cùng hư không, khắp cả pháp giới. Đây là học Phật, là chính niệm, là thật tướng của các pháp, nếu có thể quán sát như thế thì pháp hỷ sung mãn, làm sao còn có thể phát khởi lên phiền não? Dùng cách làm việc này áp dụng ở công ty, cũng là tu sáu Ba-la-mật.

Tu học Phật pháp nhất định phải thực hành ngay trong đời sống, nếu không thực hành ngay trong đời sống thì không có chỗ hữu dụng. Nếu có thể hiểu rõ điểm này ngay trong mỗi ngành nghề, Bồ-tát thị hiện các loại thân hình nam, nữ, già, trẻ không giống nhau. Tu học tức là ngay ở bổn phận trong cuộc sống, bình đẳng không có hai, tất cả đều là thứ nhất, không có thứ hai. Nếu sống được như thế thì có thể viên mãn, khắp nơi đều tự tại.
III. THẬT CHỨNG

Đại sư Ngẫu Ích nói: “Vãng sinh được hay chăng hoàn toàn dựa vào chỗ có Tín Nguyện hay không ?” Chương này góp nhặt, ghi chép hai ba truyện vãng sinh thời cận đại. Từ sự vãng sinh của họ, bảo cho chúng ta biết: Phải chắc chắn là “vạn duyên buông bỏ”, phải “nhất tâm, nhất ý niệm Phật”, để vượt qua nỗi đau khổ của xác thân; phải kiên trì nguyện lực vãng sinh Tây phương, thẳng đến sự vãng sinh trọn vẹn mà những điều này hoàn toàn được bắt nguồn từ lòng tin vững chắc, chí nguyện thiết tha.

Truyện thứ nhất, quá trình vãng sinh của cư sĩ Bành Tô Tuyết Liên ở Tuyết Lê, Úc châu. Cư sĩ niệm Phật đã ba năm, thọ 86 tuổi. Trước giờ lâm chung, bà đã niệm Phật hơn ba mươi tiếng đồng hồ ( không có người thay thế). Bà không hề ngơi nghỉ, mím chặt môi đến phút cuối; nguyện lực, nghị lực kinh người của bà đã khế hợp với hạnh nguyện tiếp dẫn vãng sinh của Đức Phật A-di-đà, cảm được Đức Phật phóng quang tiếp dẫn, thoát ly phàm tục, một bước lên thành thánh, chứng tỏ lời Phật nói không ngoa.

Truyện thứ hai, Lý phu nhân trong lúc nghe kinh bị đứt mạch máu não hôn mê, trợ niệm cho bà đến ngày thứ ba thì bà khôi phục được tri giác, niệm Phật theo mọi người rồi mỉm cười vãng sinh. Bà đã giúp cho các vị đồng tu tông Tịnh Độ, giải trừ được mối nghi ngờ: “Người niệm Phật gặp việc đột ngột ngoài ý muốn thì có thể vãng sinh Tịnh Độ không?”, cũng chứng minh được lời thuyết pháp của Đức Thế Tôn: “Cây mọc nghiêng về hướng tây, nếu đột nhiên bị người chặt phá, thì nó có ngã về hướng nào khác không?”. Đáp án là: “Nó ngã về hướng tây”. Điều đó đã nói rõ “Tin sâu, nguyện thiết” là then chốt vãng sinh của người niệm Phật. Vì vậy, khi đại hạn đến, ta không nên hoảng loạn, phải tình nguyện tiếp nhận, tránh làm cho tâm sân lại nổi lên, phải bám chặt danh hiệu Phật, cầu Phật tiếp dẫn.

Truyện thứ ba, sự vãng sinh của cư sĩ Lạc Toàn Thông.

Ngoài việc đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ trong suốt ba năm không gián đoạn của bản thân cư sĩ Vân Liên ra, “trợ niệm” là sự trợ duyên lớn nhất cho bà thuận lợi vãng sinh. Bà dạy dùng trí huệ và quyết tâm không gì sánh bằng thì có thể làm trọn đạo hiếu của người con. Dựa vào sức bà và cô gái nhỏ trong sự giúp đỡ của người nhà trợ niệm suốt chín mươi giờ, không có sự trợ giúp của người ngoài đã khiến cho chúng ta cảm động sâu sắc và thấy rõ: Trợ niệm khi lâm chung, không chủ yếu đông người mà ở nơi tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm chuyên nhất thì lực vững chắc, có thể phá trừ được tất cả chướng nạn, từng âm thanh niệm danh hiệu Phật đều có thể thấu đạt đến tâm Ngài thì cần gì lo lắng người trợ niệm quá ít? Cầu phước cho bạn.

A-di-đà Phật!

Niệm Phật Công Đức phần giới thiệu
Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục