Hành Giả Niệm Phật Phải Có 2 Tâm Ưa Và ChánNgười muốn quyết định sinh về Tây phương thì phải có đủ hai hạnh mới quyết chắc sinh về nước kia. Một là hạnh chán lìa, hai là hạnh ưa nguyện.

Hạnh chán lìa: Phàm phu từ vô thỉ đến nay bị năm dục trói buộc luân hồi trong sáu nẻo chịu đủ các khổ, nếu không khởi tâm chán lìa năm dục, không lúc nào thoát ra. Cho nên phải thường quán sát thân này với máu mủ, phẩn tiểu, tất cả nhơ xấu thải ra, bất tịnh hôi thối. Kinh Niết-Bàn nói: Cái thành thân như thế, La sát ngu si ở trong đó. Ai là người có trí mà ưa thích thân này. Kinh lại nói: Thân này chứa nhóm các khổ, tất cả đều bất tịnh, bị trói buộc bởi các thứ ung nhọt…, căn bản không có ý nghĩa, lợi ích. Cho đến thân của các trời đều cũng như vậy. Hành giả hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc ngủ hoặc thức phải thường quán thân này, chỉ có khổ, không có vui, rất sinh tâm chán lìa, dẫu việc vợ chồng không thể dứt ngay mà dần dần sinh chán. Thực hành bảy pháp quán bất tịnh: 1. Quán thân dâm dục này, do tham ái phiền não mà sinh, là chủng tử bất tịnh. 2. Do tinh huyết cha mẹ hòa hợp, là thọ sinh bất tịnh. 3. Ở trong thai người mẹ, là chỗ ở bất tịnh. 4. Ở trong thai do huyết mẹ nuôi dưỡng là ăn uống bất tịnh. 5. Đủ mười tháng từ sản môn sinh ra, là sơ sinh bất tịnh. 6. Nằm ở bọc da trong bụng, ở đó có đủ các thứ máu mủ, là thân thể bất tịnh. 7. Sau khi chết sình trướng vữa nát hư hoại, là rốt ráo bất tịnh. Quán thân đã như vậy, thì quán người cũng như vậy. Cảnh giới đối đãi, thân nam, thân nữ,… rất sinh tâm chán lìa, thường quán bất tịnh, người quán được như vậy thì dâm dục phiền não dần dần giảm ít. Lại phát nguyện: nguyện tôi lìa hẳn tạp thực máu mủ ô uế bất tịnh tham đắm năm dục, thân nam, thân nữ… của ba cõi, nguyện được sinh thân pháp tánh ở Tịnh độ. Đây gọi là hạnh Chán lìa.

Hạnh Ưa nguyện lại có hai thứ: Một là trước phải rõ ý nghĩa của việc cầu sinh Tịnh độ, hai là quán các việc trang nghiêm ở Tịnh độ kia để tâm ưa thích nguyện cầu. Rõ ý nghĩa vãng sinh: sở dĩ cầu sinh Tịnh độ là muốn cứu giúp tất cả khổ của chúng sinh, phải tự nghĩ rằng, nay ta không có lực, nếu ở trong đời ác năm trược, cảnh phiền não mạnh mẽ, tự sẽ bị nghiệp lực trói buộc, chìm đắm trong ba đường, trải qua nhiều kiếp số, trôi lăn như thế từ vô thỉ đến nay chưa tạm dừng nghỉ, lúc nào mới cứu được chúng sinh khổ? Vì thế nên cầu sinh Tịnh độ, gần gũi Chư Phật. Nếu chứng được vô sinh nhẫn thì mới có thể ở trong đời ác trược cứu chúng sinh khổ. Cho nên Luận Vãng Sinh chép: Người phát tâm Bồ-đề, chính là có tâm nguyện làm Phật, tâm nguyện làm Phật là tâm độ chúng sinh, tâm độ chúng sinh là tâm nhiếp thọ chúng sinh sinh về cõi Phật. Lại nữa, nguyện sinh Tịnh độ phải đủ hai hạnh: Một là phải xa lìa ba pháp làm chướng ngại cửa Bồ-đề, hai là phải đạt được ba pháp thuận theo cửa Bồ-đề. Thế nào là xa lìa ba pháp làm chướng ngại cửa Bồ-đề? Một là nương tựa cửa trí tuệ, không cầu tự vui, xa lìa tâm chấp ngã, tham đắm tự thân. Hai là nương cửa từ bi, cứu khổ cho tất cả chúng sinh, xa lìa tâm không an ổn chúng sinh. Ba là nương cửa phương tiện, thương xót tất cả chúng sinh, muốn đem đến niềm vui cho họ, xa lìa tâm cung kính cung dưỡng tự thân. Nếu xa lìa được ba pháp làm chướng ngại Bồ-đề thì được ba pháp thuận theo cửa Bồ-đề, ba pháp ấy là: Một là tâm thanh tịnh không nhiễm, không vì tự thân mà mong cầu các vui sướng. Bồ-đề là nơi thanh tịnh không nhiễm, nếu vì tự thân mà cầu vui tức là thân tâm ô nhiễm làm chướng ngại cửa Bồ-đề, cho nên tâm thanh tịnh không nhiễm là thuận theo cửa Bồ-đề. Hai là tâm an thanh tịnh, vì cứu khổ cho chúng sinh nên Bồ-đề là chỗ thanh tịnh để an ổn tất cả chúng sinh, nếu không có tâm cứu giúp tất cả chúng sinh, khiến họ lìa khổ sinh tử thì trái với cửa Bồ-đề, cho nên tâm an thanh tịnh là thuận theo cửa Bồ-đề. Ba là tâm lạc thanh tịnh, muốn cho tất cả chúng sinh chứng Đại Bồ-đề Niết bàn. Bồ-đề Niết bàn là nơi rốt ráo thường vui, nếu không có tâm khiến cho tất cả chúng sinh được rốt ráo thường vui tức là ngăn đóng cửa Bồ-đề. Cho nên tâm lạc thanh tịnh là thuận theo cửa Bồ-đề.

Nhân đâu được Bồ-đề này? Nhân sinh Tịnh độ, thường không lìa Phật đắc vô sinh nhẫn rồi thì ở trong cõi sinh tử cứu chúng sinh khổ, Bi Trí dung hợp nhau, định mà thường dụng, tự tại vô ngại tức là tâm Bồ-đề. Đây là ý nghĩa của việc nguyện sinh.

Hai là quán các việc trang nghiêm, tâm ưa thích nguyện cầu: tâm mong cầu, khởi tưởng duyên với đức Phật A-di-đà, như pháp thân, báo thân… có sắc vàng chói sáng, có tám vạn bốn nghìn tướng, mỗi tướng có tám vạn bốn nghìn vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp phát ra tám vạn bốn nghìn tia sáng, thường chiếu soi pháp giới, nhiếp lấy chúng sinh niệm đến Phật. Lại quán ở cõi nước ấy có bảy thứ báu quý trang nghiêm diệu lạc, đầy đủ như trong Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Thập Lục Quán, thường hành Tam-muội niệm Phật và tất cả các hạnh lành như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, v.v. thảy đều hồi hướng cho chúng sinh, cùng được sinh về cõi Cực lạc, thì chắc chắn được sinh, đó gọi là hạnh Ưa nguyện.

Trích đoạn Đại sư Trí Khải luận về hai nghĩa: Ưa và Chán
Liên Trì Pháp Vũ Tập (từ sách “Tịnh độ tùng thư” của cư sĩ Mao Dịch Viên biên soạn)
Tịnh nghiệp học giả Trần Canh Thạch biên tập Hán văn
Cư sĩ Minh Ngọc phụng dịch Việt văn