04 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Một người tu đạo chân chánh là không nên nhìn lỗi của người khác. Nếu không thì lỗi của người cũng chính là lỗi của mình. Nói tâm tôi rất an tịnh, tôi không có như thế, trên thực tế, quý vị không biết rằng khi phát hiện ra khuyết điểm của người khác thì bản thân nó đã trở thành khuyết điểm của quý vị rồi. Sự thật này, chân lý này, người bình thường ít khi nhận ra. Có người nói tâm tôi rất an tịnh, tâm tôi rất tốt, hôm nay tôi rất vui, nhưng thật ra đó chỉ là cảm giác nhất thời của quý vị, hoặc là cách nghĩ tạm thời để khống chế mình có được những trạng thái tâm mong muốn. Một khi quý vị phát hiện ra khuyết điểm của người, thì ngay chỗ khởi tâm động niệm đó đã là khái niệm của phiền não rồi đấy!
Tâm trạng quý vị đang vui, nhìn thấy người khác lúc nào cũng rất tốt; khi tâm khởi phiền não, nhìn thấy người khác chỗ nào cũng không ưa nổi. Khi trạng thái tâm mình như thế nào, nhìn người khác cũng có những tính chất tương tự. Đó là những trạng thái của tâm tốt và xấu. Tâm khởi phiền não cũng là vì trong lòng chất chứa đầy những vấn đề tốt xấu. Nói mình tốt, người khác xấu, đó đều là phiền não,vì tốt hay xấu vốn đã là phiền não. Vấn đề là quý vị có chịu thừa nhận hay không mà thôi.
Quý vị không biết, những điều mắt quý vị thấy đều là hư vọng, không toàn diện. Mắt của chúng ta chỉ có thể nhìn thấy phía trước mà không nhìn thấy phía sau, nó không thể có được một cái nhìn thẩm thấu, cho nên luận về công đức, mắt có đến 800 công đức, nhưng không bao giờ nó đạt đến trình độ viên mãn. Nên nói khi quý vị muốn biết thật sự về mình thì trước mặt và sau lưng đều cần phải có một tấm kính, như thế mới có thể nhìn thông được phía sau.
Nguyên nhân gì khiến mình nhìn thấy lỗi của người khác? Đó là vì chúng ta có một cặp mắt, khi có cặp mắt thì cũng đồng thời phát sinh ra cặp tâm phân biệt. Cặp mắt chính là tâm phân biệt; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều là tâm phân biệt của quý vị. Thế nào là tâm phân biệt? Chỉ cần mắt quý vị nhìn thấy vấn đề, phát hiện vấn đề thì đó đều là tâm phân biệt. Phật và Bồ tát có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không? Không có. Trong “Tâm Kinh” nói rất rõ: không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và cũng không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có cảnh giới của mắt, cho đến không có cảnh giới của ý thức; không có vô minh, nên không có sự diệt tận vô minh, cho đến không có già chết… Khi chúng ta phát hiện ra vấn đề của người khác, dùng cái gì để phát hiện? Dùng phiền não để phát hiện. Quý vị tự đeo cho mình một cặp kính màu thành kiến, rồi dùng cặp kính màu này để phát hiện ra lỗi của người.
Chúng ta muốn thật sự hiểu rõ chính mình và cái gì gọi là phiền não thì đầu tiên quý vị phải buông bỏ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chính mình. Có người nói, như thế tôi chẳng phải trở thành một kẻ mù hay sao? Nếu quý vị thật sự trở thành “một kẻ mù” thì quá tốt, mấu chốt ở chỗ là sợ mắt quý vị không mù, tai quý vị không điếc, miệng quý vị không câm. Nếu quý vị có thể trở thành một “người mù, người điếc…”, buông bỏ hết tất cả những thứ này thì tự thân quý vị sẽ không còn khởi phiền não, sẽ không còn nhìn thấy phiền não của người khác. Vì sự xả bỏ đó mà ba ngàn thế giới này đều là của quý vị, tâm quý vị không khởi phiền não thì thiên hạ ắt sẽ được thái bình.
Như có người tu hành, chúng ta đến bên cạnh người đó, mặc dù trong lòng đang khởi tâm động niệm, đang rất phiền não, nhưng chỉ một thoáng sau tất cả phiền não đều không còn. Gặp người tu hành có định lực, bất luận trong lòng quý vị có bao nhiêu phiền não, khi được ở bên cạnh người ấy, tất cả phiền não của quý vị đều được hóa giải. Chúng ta vì chưa hóa giải được, nên còn phiền não. Phiền não khởi lên không phải từ bên ngoài, mà hoàn toàn ngay chính tự thân. Do đó, điều răn thứ nhất trong quy luật Thiền môn là: Không bao giờ được nhìn lỗi người khác, phải luôn luôn thông hiểu cho người.
Quý vị nói sự thật là như thế, đó chính là lúc mắt quý vị đang phát huy tác dụng, nó có thể nhìn thấy được một số vấn đề: Anh ta đang làm việc trái pháp…đó là căn bệnh của mắt từ xưa đến nay. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” Đức Phật chẳng phải đã nói: Ánh sáng của ngọn đèn kia vì sao có một vòng tròn? Rốt cuộc là ngọn đèn kia phát ra vòng tròn hay chính cặp mắt của quý vị có vòng tròn? Kết quả phát hiện cho thấy do cặp mắt của quý vị có vấn đề, khi trị lành cặp mắt, vòng tròn kia sẽ không còn. Vòng tròn không phải do ngọn đèn sanh ra, mà do cặp mắt của quý vị tạo nên. Vì sao nói vòng tròn do mắt tạo ra? Là vì hạt giống phiền não trong tâm của quý vị đang có mặt và tất nhiên nó sẽ phát hiện ra được những hạt giống cùng loại nơi người khác.
Do sự thay đổi tư tưởng nơi chúng ta nên mới có lỗi lầm nơi người khác. Đó là tư tưởng gì? Ví dụ nói, chúng ta bây giờ xuất gia, tu đạo, giữ giới, khi nhìn thấy người khác không giữ giới, chúng ta phiền não. “Tại sao người ấy không giữ giới? Tại sao người ấy không nổ lực tu đạo? V.v..”, cứ thế không ngừng nhìn thấy lỗi của người. Đổi lại khi chưa xuất gia, chúng ta chưa nhận biết những lỗi này, vẫn cứ cho như thế là rất tốt. Nhưng thái độ giả lơ cũng không phải là thượng sách, những nhận thấy trên dầu sao cũng thuận với chánh pháp, đó là một quá trình nhận thức từng bước, từng bước. Tóm lại, phiền não khởi lên không phải từ bên ngoài, mà là từ trong nội tâm. Khi phát hiện ra lỗi lầm của người khác, quý vị nên dũng cảm thừa nhận lỗi lầm của mình, trước phải quán xét tự thân, phải sám hối với chính mình, như thế mới có thể giải quyết được vấn đề.
Lúc trước, chúng ta có nói đến pháp tu nhẫn nhục, thế nào gọi là nhẫn? Tức nhẫn điều không thể nhẫn. Không có năng nhẫn và sở nhẫn (người nhẫn và điều được nhẫn), không có hoàn cảnh, “ngã” của năng nhẫn và “tha” của sở nhẫn đều không tồn tại, đó gọi là năng nhẫn hay nhẫn. Quý vị chỉ có nhận thức với một thái độ như thế mới có thể nhận biết được vấn đề một cách như thật. Mở miệng tuyệt đối không nói lỗi lầm của người, bất cứ lúc nào trong tâm cũng không nên có tâm niệm thị phi. Có loại tâm niệm đó, phiền não nhất định sẽ phát sanh; không có tâm đó, phiền não sẽ không còn lai vãng.
Nói như thế, có phải là tôi không muốn sửa đổi, ngăn chặn lỗi lầm của người khác, vì vậy mà đôi lúc khiến cho công việc bị đổ vỡ? Trên thực tế, khởi đầu là do quý vị không chuyển được cảnh, đợi đến khi trong tâm của quý vị thật sự không còn tâm niệm thị phi thì những hiện tượng trên tự nhiên biến mất. Sở dĩ những hiện tượng trên có mặt là do ban đầu quý vị có gieo hạt giống đó, nó nhất định trổ quả cho quý vị xem, nó khiến cho quý vị phát hiện ra vấn đề. Một khi đã phát hiện ra vấn đề, bước đầu tiên quý vị vẫn còn cảm thấy rất thanh tịnh; bước thứ hai thì phát hiện ra người khác sao có quá nhiều vấn đề, quá nhiều sự việc; bước thứ ba quý vị sân si lên, anh làm sao mà trở nên như thế được hỉ? Bước thứ tư quý vị đi đến nước chịu hết nổi.
Khi phát hiện ra vấn đề của người khác thì phiền não tự thân đã nổi lên, đó là điều hiển nhiên. Bất luận quý vị phát hiện ra ưu điểm hay khuyết điểm của người cũng đều là phiền não. Vì có sự phân biệt ta, người, chúng sanh thì đã có phiền não. Có người và ta, là đã có sự đối lập. Nhận thấy có người khác thì cái ta liền phát sinh lên. Cái ta này từ đâu đến? Vì thấy có người khác, nên cảm nhận được sự có mặt của cái ta, nếu khi không có người khác thì cái ta cũng không tồn tại. Cho nên nói hiện tại chúng ta đã phạm phải một sai lầm rất lớn.
Có người nổi sân si, quý vị nói người đó đã làm ảnh hưởng đến mình. Bất luận quý vị nhận thấy cái tốt hay cái xấu của người cũng đều là phiền não của quý vị. Quý vị thấy anh ta hôm nay tốt, ngày mai tốt, ngày mốt thì đã xấu đi rồi. Đối với anh ta thì tốt, đối với người khác thì xấu, luôn luôn có sự phân biệt như thế. Nên nói tốt hay xấu đều do sự đối lập sinh ra, chỉ cần một phương diện khởi này lên thì phương diện kia liền sanh theo.
Tại sao nói nhìn thấy tốt hay xấu đều không đúng? Biết cái xấu, chúng ta không học theo. Nhưng khi chúng ta phát hiện ra chỗ tốt của người, liền khởi lên sự so sánh. Người này tu hành chân chánh, tốt quá, mình sẽ theo học với người ấy. Quý vị nhìn thấy người đó ngồi thiền sao mà trang nghiêm! tụng Kinh sao mà vang vọng! tu hành sao mà tinh tấn! Nhưng quý vị không biết rằng khi nhìn thấy những ưu điểm của người đó, đồng thời cũng nhìn thấy được mặt ngược lại của họ, hay mặt ngược lại tương tự nơi những người khác, người này như thế này, người này như thế kia, rốt cuộc ai là người tốt nhất? Đó là bản thân mình tốt nhất. Chuyển tới chuyển lui, chuyển xuôi chuyển ngược, cuối cùng dừng lại nơi mình. Nên nói chuyển một vòng thì cuối cùng cũng lộ ra “cái tôi” của chính mình, đây chỉ là một sự lừa bịp.
Trong sự tu hành, tuyệt đối đừng nên thấy có tướng nhân (thấy có sự tồ tại của người khác), chúng ta nên quán “chư pháp không tướng” mà xa rời tất cả tướng. Tất cả chúng sanh đều là cha mẹ kiếp trước của mình, đều là chư Phật trong tương lai. Tất cả đều là pháp thân của quý vị, thì quý vị còn có phiền não gì đáng nói nữa chứ? Có quán sát như vậy, mới có thể giải quyết được vấn đề. Nếu như quý vị chưa được như thế, thì chỉ còn cách nương theo thiện pháp thông thường mà đi tới. Quý vị muốn một lần đạt được cứu cánh rất khó, bao giờ cũng có những nơi quanh co khúc khủy, chi bằng ngay tại điểm này quán sát một cách triệt để, học lấy pháp cứu cánh, đây là phương thức lý tưởng nhất.
Pháp sư Diệu Tường
03 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Có một thứ mà bạn phải mang theo khi chết: đó là nghiệp. Nghiệp là kết quả của những hành động của chúng ta. Nghiệp tốt và nghiệp xấu theo ta không rời bước. Ta không thể nào xua đuổi nó được dù ta có muốn đi nữa.
“Sự Khẩn Cấp Chụp Lấy Tôi”
Dưới thời Ðức Phật có một vị tỳ khưu trẻ sinh trưởng trong một gia đình giàu có. Trẻ trung và tráng kiện, thầy có đủ cơ hội để hưởng thụ mọi lạc thú của cuộc đời trước khi xuất gia. Thầy có sức khỏe, có đông bạn bè và thân quyến, và sự giàu có sung túc này khiến thầy được mọi người chiều chuộng và làm vừa lòng. Nhưng thầy đã từ bỏ tất cả để đi tìm sự giải thoát.
Một ngày nọ, nhà vua cưỡi ngựa dạo trong rừng. Thấy nhà sư trẻ, nhà vua dừng ngựa, đến gần và hỏi, “Thưa đại đức, đại đức còn trẻ trung và khỏe mạnh, và đang ở vào lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời, Ðại đức lại sinh trưởng trong một gia đình giàu có. Tại sao đại đức bỏ lỡ cơ hội để hưởng thụ tuổi trẻ của mình? Tại sao lại từ bỏ gia đình, khoác áo nhà tu và sống một mình? Ðại đức có thấy cô đơn không? Có thấy chán nản không?”
Nhà sư trẻ trả lời, “Thưa ngài, khi nghe lời giảng dạy của Ðức Phật, trong tôi đã khởi lên một tinh thần cấp bách. Sự cấp bách này đã thúc đẩy tôi. Tôi muốn trích xuất ra từ cơ thể này những cái gì quí báu nhất trước khi tôi từ giã cõi đời. Ðó là lý do tại sao tôi từ giã đời sống thế tục và khoác lên mình chiếc y vàng.”
Nếu bạn vẫn chưa đồng ý là cần phải hành thiền một cách cấp bách — mà không dính mắc vào thân thể hay đời sống — thì những lời dạy sau đây của Ðức Phật cũng có thể làm bạn đổi ý mà tinh tấn thực hành. Ðức Phật dạy chúng ta phải luôn luôn ý thức rằng thân thể này chẳng gì khác hơn là sự hợp thành của danh và sắc. Danh và Sắc không thể tồn tại được dù trong một thời điểm ngắn ngủi. Danh Sắc trôi chảy không ngừng. Một khi đã có thân tâm này, thì chẳng có cách gì làm cho nó đừng già. Khi còn trẻ ta muốn mình mau lớn, khi lớn tuổi lại muốn mình đừng già.
Chúng ta muốn được khỏe mạnh, nhưng sự mong mỏi của chúng ta không bao giờ được thỏa mãn. Chúng ta bị đau khổ và bất toại nguyện, bị bệnh tật dày xéo suốt cuộc đời. Chúng ta không thể nào sống mãi mãi được. Tất cả chúng ta đều phải chết. Chết là điều trái ngược với lòng mong cầu của chúng ta, nhưng chúng ta không ngăn cản được. Chỉ có một điều là lúc nào cái chết sẽ đến mà thôi. Ta không thể nào ngăn cản đừng cho thân thể này thay đổi hay biến chuyển theo thời gian.
Không một ai trên thế gian này có thể cam kết rằng những điều ước ao của chúng ta về một đời sống phát triển, khỏe mạnh và bất tử sẽ được bảo đảm. Người ta từ chối chấp nhận sự thật. Già muốn làm cho trẻ ra. Các nhà khoa học cố gắng tìm đủ mọi phương pháp, phát minh ra những máy móc kỳ diệu để trì hoãn tiến trình hủy diệt của con người. Họ cố tìm cách làm sống lại những người đã chết. Khi đau ta uống thuốc để cảm thấy dễ chịu. Nhưng dù cho có lành bịnh thì ta cũng đau lại, không thể đi ngược lại với thiên nhiên. Chúng ta không thể tránh khỏi già, bệnh, chết.
Ðiểm yếu đuối chính của chúng ta là thiếu an toàn. Hãy nhìn những sinh vật khác, những con thú, và nhất là con người. Có chỗ trú ẩn nào để tránh khỏi già, bệnh và chết không?
Nếu bạn hành thiền tích cực, bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy những sự kiện này hiển bày trước mắt bạn. Nếu bạn có thể thấy bằng trực giác sự sinh diệt của các hiện tượng thân tâm, bạn sẽ biết rằng chẳng có một chỗ an toàn nào để ẩn trú cả. Không có một nơi nào an toàn. Dầu trí tuệ của bạn chưa đạt được điểm này, nhưng khi suy tư về sự không bền vững của cuộc sống cũng khiến bạn có những tư tưởng khẩn cấp và một sự khích lệ mạnh mẽ trong việc hành thiền cũng phát sinh. Thiền minh sát có thể dẫn bạn đến một nơi thoát khỏi những điều sợ hãi này.
Con người cũng có một điểm rất yếu nữa là không có quyền sở hữu. Ðiều này có vẻ kỳ lạ. Chúng ta được sinh ra, chúng ta bắt đầu có sự hiểu biết, chúng ta có tín nhiệm, phần lớn có việc làm và mua sắm với tiền lương của mình. Chúng ta gọi đó là tài sản của chúng ta. Và trong một mức độ tương đối, đó là những gì mà ta có. Không nghi ngờ gì về việc này. Nếu tài sản thật sự là của ta thì ta không bao giờ bị xa rời chúng. Nếu chúng bị vỡ hay mất, thì làm sao ta có thể gọi đó là của sở hữu của chúng ta? Trong ý nghĩa tuyệt đối của nó, khi con người chết, chẳng có thể mang theo được gì. Mọi vật chúng ta có được, chúng ta tồn trữ, thu vét, đều phải để lại. Bởi thế, có thể nói rằng, tất cả chúng sanh đều không có quyền sở hữu. Vào lúc chết, tất cả tài sản đều phải bỏ lại.
Của sở hữu chia làm ba loại. Bất động sản là những thứ ta không mang đi được như đất đai, nhà cửa, v.v… Theo tục đế, thì nó thuộc về bạn, nhưng bạn phải bỏ nó lại khi bạn chết. Loại tài sản thứ hai, là động sản, là những thứ ta có thể mang đi được như ghế bàn, áo quần, đồ dùng, v.v… Sau đó là kiến thức, mỹ thuật và khoa học, tài năng bạn dùng để duy trì cuộc sống và gia đình. Bao lâu chúng ta còn có một cơ thể lành mạnh thì tài sản, kiến thức rất cần thiết, tuy nhiên, không có một bảo đảm nào để tránh khỏi sự mất mát. Bạn có thể quên những điều bạn biết. Bạn có thể bị cấm đoán bởi chánh quyền, hay gặp những chuyện bất hạnh khác khiến bạn không thể xử dụng những hiểu biết của bạn. Chẳng hạn như bạn là một bác sĩ giải phẫu, nhưng chẳng may tay bạn bị gãy hoặc gặp những bất trắc khác khiến bạn bị loạn thần kinh nên bạn không thể tiếp tục nghề nghiệp của mình.
Không một loại tài sản nào trên đây có thể đem lại sự an toàn cho bạn ngay khi bạn còn đang sống trên mặt đất này nói chi đến đời sau. Nếu bạn hiểu rằng mình chẳng làm chủ một thứ gì cả, và sự sống này chuyển biến không ngừng, thì bạn sẽ cảm thấy an lạc nhiều hơn khi mọi đổi thay xảy đến cho bạn.
Gia Tài Thật Sự Của Chúng Ta
Tuy nhiên, có một thứ mà bạn phải mang theo khi chết: đó là nghiệp. Nghiệp là kết quả của những hành động của chúng ta. Nghiệp tốt và nghiệp xấu theo ta không rời bước. Ta không thể nào xua đuổi nó được dù ta có muốn đi nữa.
Sự tin tưởng rằng nghiệp là gia tài của bạn, khiến bạn hăng say trong việc hành thiền. Bạn sẽ hiểu rằng những hành động thiện là căn bản, là vốn đầu tư hạnh phúc trong tương lai, và hành động bất thiện sẽ đem lại cho bạn nhiều đau buồn sau này. Ðược như thế, bạn sẽ làm nhiều việc thiện phát xuất từ lòng từ ái. Bạn sẽ giúp đỡ cho bệnh viện, cho những người đau khổ vì thiên tai; bạn hỗ trợ cho những người trong gia đình, các bà con thân quyến, lo cho người già, người tàn tật và cô đơn, bạn bè, và những người cần sự giúp đỡ. Bạn muốn tạo một xã hội tốt đẹp hơn bằng cách giữ gìn giới luật trong sạch; có lời nói và việc làm hợp theo lẽ đạo. Bạn sẽ đem lại sự bình an cho mọi người xung quanh bằng cách hành thiền và chế ngự các phiền não đang dâng tràn trong tâm mình. Bạn sẽ tuần tự thành đạt các tuệ giác, và cuối cùng nhận chân được mục đích tối hậu. Tất cả các việc làm như bố thí, cúng dường, giữ gìn giới luật cũng như hành thiền đều sẽ theo bạn sau khi bạn chết như bóng với hình. Bởi thế, hãy cố gắng làm các việc lành!
Tất cả chúng ta đều nô lệ cho ái dục. Ðó là một điều hèn hạ xấu xa, nhưng đó là sự thật. Ái dục chẳng bao giờ no chán, vô chừng vô độ, không sao thỏa mãn nổi. Khi nhận được một vật chưa đúng ý mình, bạn tìm cách để có một vật khác. Và khi có được vật mình ưa thích rồi, bạn lại muốn được một vật mới lạ khác nữa. Lòng tham muốn không bao giờ được thỏa mãn. Ðó là bản chất cố hữu của con người. Túi tham không đáy! Tham ái không bao giờ thỏa mãn được tham ái. Nếu hiểu đúng đắn chân lý này, chúng ta sẽ không tìm kiếm sự thỏa mãn bằng cách tự hủy hoại mình như thế. Vì vậy, Ðức Phật nói: “Biết đủ là gia tài lớn lao nhất.”
Bạn hãy đọc câu chuyện về người đan rổ sau đây: Có một người đan rổ bình dị, luôn luôn vui sống với công việc của mình. Anh ca hát, và huýt sáo suốt ngày trong khi ngồi đan rổ. Tối đến, anh trở về căn chòi lá bé nhỏ của mình và ngủ một giấc ngủ ngon lành. Ngày nọ, một nhà triệu phú đi ngang qua chỗ anh bán rổ. Thấy anh nghèo nàn, nhà triệu phú thương hại và tặng một ngàn đồng.
Anh đan rổ nhận tiền với lòng biết ơn. Anh ta chưa từng có đến một ngàn đồng trong đời. Anh cầm tiền và trở về căn chòi xiêu vẹo của mình. Anh phân vân không biết nên cất ở đâu. Căn lều này chẳng an toàn chút nào. Suốt đêm anh trằn trọc không ngủ vì sợ trộm, sợ chuột cắn nát tiền.
Sáng hôm sau, anh đem túi tiền ra chỗ mình ngồi đan và bán rổ, nhưng anh không hát và huýt sáo như thường lệ, vì anh lo lắng cho số tiền. Tối đó, anh lại mất ngủ nữa. Sáng hôm sau, anh đem tiền trả lại cho nhà triệu phú và nói: “Xin hãy trả lại hạnh phúc cho tôi”.
Bạn có nghĩ rằng Ðức Phật không muốn bạn tạo kiến thức và uy tín, không muốn bạn hăng say làm việc để kiếm tiền nuôi bản thân và gia đình và dành dụm phòng khi đau ốm hay gặp cảnh khó khăn chăng? Không phải vậy! Bằng mọi cách, hãy xử dụng đời sống và trí thông minh của bạn để thỏa mãn các nhu cầu của mình một cách hợp pháp và lương thiện.
Hãy tri túc, bằng lòng với những gì mình đang có! Ðừng nô lệ cho lòng tham ái của mình. Ðó là thông điệp của Ðức Phật. Hãy suy tưởng về sự yếu kém của chúng sanh, để tận dụng tối đa thân thể và đời sống này trước khi nó quá già, quá bệnh, không đủ sức để hành thiền và trở thành một cái thây vô dụng.
Thiền sư U Pandita
03 07 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Giản dị nhất là hãy loại trừ dần những gì không có ích cho ta. Rõ ràng là khi chết, phần đông những gì ta ưa thích lúc còn sống không còn giúp ích gì cho ta được nữa, ít ra là không giúp trực tiếp. Thế là của cải, gia tài mà ta đã khó khăn lắm mới gom góp được, nay sẽ hoàn toàn vô dụng.
Chức vị, thanh danh, tên tuổi cũng thế… Người thân cũng không còn trực tiếp giúp ta được: cha mẹ, con cái, vợ chồng, y sĩ, bạn bè kể cả sư phụ hay đệ tử, không ai ngăn cản nổi cái chết, ngay cả những người mà ta đặt hết tin tưởng và trông cậy cả một đời.
Hãy suy nghĩ một chút. Hiển nhiên là khi ta nhắm mắt lìa đời, thân và tâm vi tế sẽ rời khỏi cái vỏ vật chất trước để hướng đến một nơi tái sinh khác, thì của cải và tài sản sẽ hoàn toàn vô dụng, trong ý nghĩa là ta không đem theo được gì cả. Đừng nghĩ rằng vì ta đã thành công và sung túc, ngay cả giàu có đi nữa nên ta có thể đầu thai trở lại cùng với tiền bạc của cải vật chất. Điều này không thể được. Hơn nữa, ta cũng không thể đem bất cứ ai đi theo ta, kể cả những người thân yêu nhất. Ngay cả khi ta cảm nhận được một sự ràng buộc rất mật thiết, trên phương diện tâm linh hay gì khác, với một số người nào đó, những sự ràng buộc này cũng không còn “ích lợi” nữa, trong ý nghĩa là họ không có cách nào đi theo ta một quãng đường xa hơn.
Sự thật, chết nghĩa là thân và tâm vi tế phải tiếp tục con đường của mình để hướng đến một cuộc sống mới, nhưng không thể đem theo những gì mà mình đã sở hữu suốt cả cuộc đời vừa mới chấm dứt, cũng không thể dắt theo một người nào, dầu thân thiết đến đâu đi nữa. Vả lại, ngay cả cái thân thể nhờ những nghiệp lực đặc thù nào đó mà ta đã lấy được lúc phôi thai và đã sử dụng từ đầu đến cuối cuộc đời, chính cái thân thể gần gũi và trung thành với ta dường ấy, ta cũng bắt buộc phải bỏ lại sau lưng.
Nói tóm lại, tất cả những gì mà suốt đời chúng ta đã gọi là “của tôi”, đã nói là “thuộc về tôi”, “tôi có”, thì khi chết đi đều không thuộc về ta nữa, mà sẽ lọt vào tay những chủ nhân khác, cũng một cách tạm bợ không kém.
Điều này áp dụng cho tất cả: tiền bạc, quần áo, nhà cửa, và ngay cả thân thể – thi thể – không còn là của ta, mà sẽ thuộc về những người ở lại, những người thừa kế của ta v.v… Và rồi có một ngày, họ cũng sẽ phải trải qua cảnh huống ấy.
Thế thì tất cả những của cải vật chất mà ta sở hữu trong suốt một đời, ta đều phải để lại khi chết đi, và chúng qua tay người khác. Còn đối với người thân, những người gần gũi nhất – cha mẹ, con cái v.v… – thì chết có nghĩa là phân ly với họ, vĩnh viễn. Ta sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa. Nói thế không có nghĩa là chúng ta sẽ không gặp lại họ trong những kiếp tái sinh, nhưng chắc chắn là sẽ không như trước nữa. Phải, chúng ta có thể gặp lại họ, nhưng trong những bối cảnh hoàn toàn khác biệt, trong ấy mỗi người sẽ có một địa vị không giống chút nào với những quan hệ mà ta đã đan kết trong kiếp sống này, những quan hệ mà ta hằng tha thiết.
Để diễn tả tất cả những cảnh phân ly và nhấn mạnh tính chất vĩnh cửu của chúng, đức Phật đã dùng đến đủ loại thí dụ minh họa, nhất là trong kinh Phổ Diệu, Đức Phật đã gợi đến cảnh lá rụng mùa thu. Khi trời trở lạnh và gió thổi mạnh, những chiếc lá trong tán lá hài hòa của ngọn cây bắt đầu rơi xuống và bay tán loạn theo cơn gió lốc. Sau đó, việc cố nhặt chúng về và gắn trở lại lên những cành cây xưa kia để hồi phục tán lá cũ là một công việc vô ích, không thể làm được.
Những chiếc lá cây một khi phân tán thì vĩnh viễn không tụ họp được với nhau nữa, giống như những cuộc phân ly sau cái chết, không thể vãn hồi được. Đức Phật dạy rằng không ai có thể phục hồi những hoàn cảnh y như trước. Ngài cũng lấy thí dụ của một dòng nước chảy, nó chảy xuống phía dưới và không bao giờ, không bao giờ chảy ngược về nguồn.
Vậy thì điều gì có thể có ích lúc ta chết? Để nhận thấy được, ta phải bắt đầu bằng kiểm nghiệm xem ta có thể mang gì theo khi chết đi. Theo Phật giáo, khi ta lìa một cuộc đời để hướng đến một kiếp tái sinh khác, ta chỉ có thể vỏn vẹn mang theo những gì đã tiêm nhiễm trong tâm, hay chính xác hơn, trong dòng tâm thức. Cái gì đã lắng đọng xuống trong dòng tâm thức? Cũng theo Phật giáo, đó là những “dấu ấn”, hay cũng gọi là những “tiềm năng”. Mỗi khi ta tác động lên một trong 3 bình diện thân, khẩu, ý là ta để lại trong tâm một dấu vết, một năng lượng hay một tiềm năng. Và ta chỉ có thể tác động theo hai phương cách: một là xấu, hai là tốt. Kết quả là những tiềm năng mà chúng ta tích tập theo thời gian có thể hoặc tốt hoặc xấu, tùy theo những hành vi phát khởi ra chúng: nếu mang lại lợi ích thì là thiện, ngược lại nếu tệ hại thì là ác.
Nói thế thì điều gì có lợi cho ta khi ta chết? Chúng ta sẽ mang theo, dầu muốn dầu không, tất cả những tiềm năng mà chúng ta đã tàng trữ. Lẽ dĩ nhiên những tiềm năng xấu không thể giúp ích cho ta. Ngược lại, chúng còn gây hại cho ta. Vậy thì cái gì còn lại để ta có thể nhờ cậy vào? Chỉ có những tiềm năng tốt mà thôi. Nếu trong suốt cuộc đời vừa qua chúng ta đã thường xuyên và mạnh mẽ thực hiện những hành vi tốt, chính đáng và vị tha, thì các tiềm năng phát sinh sẽ đi theo chúng ta và rất có lợi cho chúng ta. Chỉ có những hành vi này mà thôi. Ngoài ra, không có gì khác!
Diệu Hạnh
30 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Tựa: Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Tất cả chúng sinh chẳng được gọi là giác, vì từ xưa đến nay, niệm niệm tiếp nối nhau chưa từng lìa niệm”. Niệm là bất giác. Phật là giác. Niệm Phật là dùng giác để thu phục bất giác, vào trong biển Chánh giác.
Hoa Nghiêm đủ tất cả Tam muội của các đức Phật, nhưng trong đó, niệm Phật là vua của tất cả Tam muội.
“Đại” không có pháp nào hơn pháp này
“Phương” không có pháp nào hơn pháp này
“Quảng” không có pháp nào hơn pháp này
Mục lục
I/ Tựa
II/ Luận Hoa Nghiêm niệm Phật Tam muội
III/ Phần Hỏi Đáp Để Giải Quyết Các Điều Nghi
IV/ Lời cuối sách
V/ Mấy lời tâm huyết
Cư sĩ Tri Qui tu niệm Phật mười mấy năm, lại còn đi sâu vào biển nghĩa Hoa Nghiêm. Vừa rồi, ông qua Trấn Giang, có đưa cho tôi xem bộ Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam muội do ông trứ tác. Số chữ trong các trứ tác của các Ngài Thanh Lương, Táo Bá nhiều như số cát sông Hằng, được ông diễn lại trong năm sáu nghìn lời, mới biết Sớ Sao, Hiệp Luận chẳng phải nhiều, luận này chẳng phải ít. Vả lại, lúc Ngài Táo Bá tạo luận, toàn phẩm Hạnh Nguyện chưa được truyền đến Trung Quốc, nên đối với vấn đề Tịnh độ ở phương khác, Ngài có ý kiến khác biệt. Khi phẩm ấy đầy đủ, được lưu hành thì phải đợi đến bộ Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam muội này, mới phát huy được đầy đủ ý nghĩa. Chắc nhờ thần lực của đức Phật A Di Đà gia bị, nên Cư sĩ mới tùy nghi thuyết pháp, hướng dẫn mọi người.
Thiết nghĩ: Người tu Tịnh độ, niệm Phật chuyển hóa máu nhơ phiền não thành sữa pháp trong sạch. Do niệm Phật mà đắc Tam muội, đó là niệm quy về vô niệm, chuyển hóa sữa sống thành thục lạc. Trụ trong Tam muội, tinh tấn niệm Phật, đó là vô niệm mà niệm, biến thục lạc thành sinh tô. Do Niệm Phật Tam muội trải qua khắp tất cả Tam muội, rồi sau đó đầy đủ Niệm Phật Tam muội, biến sinh tô thành thục tô. Vì Niệm Phật Tam muội bao gồm hết vô lượng vô biên bất khả thuyết Tam muội, vì vô lượng vô biên bất khả thuyết Tam muội gom vào Niệm Phật Tam muội, tức Phật tức niệm, phi niệm phi Phật, thần thông vi diệu chẳng thể nghĩ bàn, là chuyển thục tô thành đề hồ.
Nếu chẳng chuyển sữa thành lạc được thì tuy niệm Phật mà chẳng thể đắc môn Tam muội. Nếu chẳng biến lạc thành tô được thì chẳng thể dùng Niệm Phật Tam muội thu gom hết tất cả bất khả thuyết môn Tam muội. Nếu chẳng chuyển tô lạc thành đề hồ được thì chẳng thể dùng một môn niệm Phật vượt thẳng lên hàng Thập địa, Đẳng giác, đắc trí Đại viên cảnh, tọa chứng Vô thượng Bồ đề.
Niệm Phật không có sai biệt, nhưng Tam muội có cạn có sâu. Sự cạn sâu của Tam muội là do sự sai biệt của người niệm Phật.
Văn Trị tôi, từ tuổi đôi mươi đã thích tu Thiền, song từ tuổi bốn mươi về sau mới kiêm tu niệm Phật. Những năm gần đây, tôi lấy niệm Phật làm Thiền, Thiền Tịnh song tu cho đến lúc tuổi già. Tôi đâu dám đem sự hiểu biết của mình ra chất vấn Cư sĩ, mà chỉ ước mong được Ngài chỉ giáo.
Tháng 03, mùa Xuân năm Giáp Thìn (1784)
Vô Dư học nhân Vương Văn Trị soạn
II/ Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội
Đệ tử Bồ tát giới Bành Tế Thanh thuật
Pháp môn niệm Phật đều được các kinh ngợi khen, nhưng nói chung, đại khái có hai đường lối: Phổ niệm và Chuyên niệm.
Như kinh Quán Phật Tướng Hải, kinh Phật Bất Tư Nghị Cảnh Giới… chỉ nói đến Phổ niệm. Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, kinh A Súc Phật, kinh Vô Lượng Thọ… đặc biệt nói về Chuyên niệm. Nay, kinh Hoa Nghiêm này chủ trương nhất đa tương nhập, chủ bạn giao dung, tức tự tức tha, cũng Chuyên cũng Phổ. Nay xin trình bày sơ lược năm môn xuyên suốt toàn bộ kinh này:
– Môn niệm pháp thân Phật để chỉ thẳng vào tự tánh của chúng sinh.
– Môn niệm công đức Phật sinh ra báo thân và hóa thân của các đức Phật.
– Môn niệm danh tự Phật để thành tựu phương tiện thanh tịnh hay nhất.
– Môn niệm Phật Tỳ Lô Giá Na để chóng nhập pháp giới Hoa Nghiêm.
– Môn niệm Phật A Di Đà Phật ở thế giới Cực lạc để viên mãn đại nguyện Phổ Hiền.
Cuối cùng, dùng cách hỏi đáp để giải quyết các điều nghi, hễ ai được thấy nghe đều quay về đạo Nhất thừa.
1. Niệm pháp thân Phật để chỉ thẳng vào tự tánh của chúng sinh.
Tánh sẵn có của chúng ta lặng lẽ sáng suốt, trùm khắp cõi nước nhiều như số bụi nhỏ. Chư Phật không có sở chứng nào khác hơn là toàn chứng tự tánh của chúng sinh.
Phẩm Như Lai Xuất Hiện nói: “Bồ tát Ma ha tát phải nên biết tự tâm, niệm niệm thường có Phật thành Chánh giác. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai chẳng lìa tâm này mà thành Chánh giác. Như tự tâm, tất cả tâm chúng sinh cũng vậy, đều có Như Lai thành Đẳng chánh giác, rộng lớn trùm khắp, không chỗ nào không có, chẳng lìa chẳng đoạn, không có dừng nghỉ”.
Lại nói: “Không có một chúng sinh nào mà không đủ trí huệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng điên đảo chấp trước mà không thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí liền được hiện tiền”.
Thế nào là lìa vọng tưởng? Phải biết sự điên đảo chấp trước của chúng sinh toàn là pháp thân chư Phật. Vì sao? Vì điên đảo chấp trước thường tự tịch diệt. Từ niềm tin này vào thì pháp thân chư Phật không chỗ nào không hiện, thanh tịnh viên mãn, trong đó không dung nạp cái gì khác, niệm niệm chẳng mê, tâm tâm không trụ. Từ đây, khởi hạnh đầy đủ đại bi, rốt ráo đại từ, không chấp thân, không chấp tu, không trụ pháp, trải qua các giai vị Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa và địa thứ mười một chẳng lìa đương niệm, nhân quả thành tựu viên mãn. Cho nên nói: “Vừa phát tâm Bồ đề, liền thành Chánh giác”. Như phẩm Hiền Thủ, phẩm Sơ Phát Tâm Công Đức nói cặn kẽ về việc này. Niệm Phật như vậy có thể thấy thân Như Lai ở khắp mọi nơi. Trong phẩm Quang Minh Giác, đức Thế Tôn phóng trăm ức quang minh từ ba nghìn đại thiên thế giới này chiếu khắp mười phương, cho đến tận pháp giới hư không giới, rồi Ngài Văn Thù nói kệ tụng, dạy người siêu việt các thứ kiến chấp hữu vô, nhất dị, sinh diệt, khứ lai, quán Như Lai ở khắp nơi. Đây là đi vào niềm tin đúng đắn về đức Phật.
Phẩm Xuất Hiện cũng nói: “Các vị Đại Bồ tát chẳng nên thấy Như Lai nơi một pháp, một sự, một thân, một cõi nước, một chúng sinh mà phải nên thấy Như Lai ở khắp mọi nơi. Ví như hư không đến khắp tất cả chỗ sắc, phi sắc, chẳng phải đến, chẳng phải chẳng đến. Vì sao? Vì hư không không có thân. Thân Như Lai cũng vậy, ở khắp tất cả mọi nơi, mọi chúng sinh, mọi pháp, mọi cõi nước, chẳng phải đến, chẳng phải chẳng đến. Vì sao? Vì thân Như Lai là không có thân, vì độ chúng sinh cho nên Như Lai thị hiện thân”. Lại nói: “Bồ tát Ma ha tát dùng trí huệ không chướng ngại, biết cảnh giới tất cả thế gian là cảnh giới Như Lai; biết cảnh giới tất cả ba thời gian, cảnh giới tất cả cõi nước, cảnh giới tất cả pháp, cảnh giới tất cả chúng sinh, cảnh giới chân như không sai biệt, cảnh giới pháp thân không chướng ngại, cảnh giới thật tế không giới hạn, cảnh giới hư không không phần lượng, cảnh giới không cảnh giới đều là cảnh giới Như Lai. Này Phật tử! Như cảnh giới của tất cả thế gian vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Như cảnh giới của tất cả ba thời gian vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng, cho đến cảnh giới không cảnh giới vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Như tất cả chỗ của cảnh giới không cảnh giới không có, tất cả chỗ của cảnh giới Như Lai cũng không có như vậy”.
Vì sao? Vì trí huệ của tự tâm vốn không chướng ngại, vì trí huệ không chướng ngại tức là cảnh giới Như Lai. Đây gọi là niệm tự tánh Phật, cũng gọi là Tự tánh niệm Phật. Tự tánh niệm Phật là không có chủ thể niệm Phật ở ngoài Phật để niệm Phật. Niệm tự tánh Phật là không có Phật ở bên ngoài làm đối tượng cho mình niệm. Thâm nhập pháp môn này thì rốt cuộc Phật sở niệm chẳng phải là cứu cánh, vì chẳng biết pháp thân là tự tánh rồi cho là riêng có Phật. Lúc đi vào pháp môn này, công đức của một niệm rộng lớn hơn hư không, không có hạn lượng.
2. Niệm công đức Phật để sinh ra báo thân và hóa thân Phật
Tất cả Như Lai xứng với lượng pháp giới hiện các loại thân, bày vô tận trang nghiêm, làm vô biên Phật sự, các Ngài đều lấy trí Phổ quang minh làm thể. Như phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm ghi: “Trí đi vào ba thời gian thảy đều bình đẳng, thân các Ngài đầy khắp thế gian, tiếng thuyết pháp của các Ngài tùy thuận chúng sinh trong khắp các cõi nước ở mười phương, ví như hư không bao trùm các hình tượng, đối với mọi cảnh giới không có chút phân biệt. Vì trí này không thể nghĩ bàn, không có cục bộ, vì đầy đủ được các lực dụng như thế nên dù ở địa vị phàm phu mà nghe pháp ngộ lý thì vẫn đắc căn bản trí. Nếu như chẳng thể dựa vào trí phát khởi sự tu hành viên tu viên chứng, rơi vào cảnh giới Nhị thừa Thanh văn thì đại dụng của chư Phật chẳng được hiện tiền”.
Thế nên, sáu phẩm của hội đầu tiên trong kinh Hoa Nghiêm toàn trình bày quả đức Như Lai. Ba mươi hai phẩm của hội thứ hai đến hội thứ tám nói đến giai vị tiến tu thẳng đến giác ngộ viên mãn. Tóm lại, chẳng ra ngoài sáu vị nhân quả để người tu hành mở rộng trí huệ thực hành các hạnh, chẳng chấp không một cách lệch lạc, để trang nghiêm cõi nước Phật. Nhưng một phẩm Phổ Hiền Tam muội trong hội đầu tiên, trình bày chủ yếu về toàn thể Phật Hoa Nghiêm. Kinh nói Bồ tát Phổ Hiền nhập vào Tam muội tạng thân Tỳ Lô Giá Na của tất cả các đức Phật. Tam muội này dựa vào pháp giới xứng tánh, trùm khắp tất cả cõi nước nhiều như số bụi nhỏ, hiện thân khắp nơi giáo hóa chúng sinh. Chẳng bỏ trần lao, hưng khởi đại dụng, theo trình độ chúng sinh mà nói phẩm Thế Giới Thành Tựu, nói phẩm Hoa Tạng Thế Giới để chỉ bày các cõi nước tịnh, uế; tất cả đều chỉ là tâm. Người thâm nhập vào biển đại nguyện Phổ Hiền thì thấy chỗ nào cũng đều là cõi nước Phật, lúc nào cũng đều là Phật sự. Phẩm Phổ Hiền Tam muội này quán triệt toàn kinh, tìm trong văn kinh Hoa Nghiêm sẽ tự thấy. Đến phẩm đồng tử Thiện Tài đi tham vấn các vị Thiện tri thức từ Tỳ kheo Đức Vân đến Trưởng giả Giải Thoát, Cư sĩ Bệ Sắc Chi La, các Ngài đều nhờ một môn niệm Phật mà được giải thoát. Như Ngài Đức Vân nói: “Tôi được năng lực quyết định thông hiểu tự tại, con mắt tín tâm thanh tịnh, ánh sáng trí huệ chiếu sáng quán sát hết các cảnh giới không bị chướng ngại, con mắt sáng suốt quán thấy khắp tất cả, đầy đủ hạnh thanh tịnh đi đến tất cả cõi nước ở khắp mười phương, cung kính cúng dường tất cả các đức Phật, thường niệm tất cả chư Phật Như Lai, tổng trì tất cả chánh pháp của chư Phật, thường thấy tất cả các đức Phật ở khắp mười phương”. Từ câu: Tôi được năng lực quyết định thông hiểu tự tại trở xuống là nói về niệm Phật pháp thân. Từ câu: Đi đến tất cả cõi nước ở khắp mười phương trở xuống là nói về niệm Phật báo thân và hóa thân.
Tùy thuận pháp thân khởi ra báo thân và hóa thân. Vì pháp thân vô lượng nên báo thân và hóa thân được cảm ứng cũng vô lượng. Cho nên, đoạn văn kinh tiếp theo nói: “Thấy một đức Phật, hai đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, nghìn đức Phật, trăm nghìn đức Phật cho đến bất khả thuyết, bất khả thuyết đức Phật ở trong cõi nước Phật nhiều như số bụi nhỏ ở phương Đông. Như phương Đông, các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương cạnh, hai phương trên, dưới cũng đều thấy như vậy”. Đây gọi là pháp môn do ức niệm cảnh giới của tất cả các đức Phật mà ánh sáng trí huệ thấy tất cả chư Phật. Chư Phật không có cảnh giới nào khác, các Ngài chỉ dùng ánh sáng trí huệ tùy thuận chúng sinh mà làm Phật sự. Người niệm Phật ở đây cũng vậy, do tín giải đầy đủ nên có thể nhập vào trí huệ Phật, do quán hạnh đầy đủ nên có thể thấy ánh sáng Phật. Ánh sáng trí huệ chẳng từ người khác mà được, chỉ nhờ nhân duyên mà ánh sáng trí huệ hiển phát. Văn kinh Hoa Nghiêm đoạn tiếp theo sau lại mở ra hai mươi mốt môn niệm Phật tận mười phương, ba thời gian và mỗi chỗ trên đầu mỗi sợi lông, Phật xuất hiện nơi thế gian trong mỗi niệm, Phật thuyết pháp trong mỗi niệm, Phật diệt độ trong mỗi niệm, đều lấy vô biên trí hạnh của tự tâm làm thể, vốn đủ ba thân (pháp thân, báo thân và hóa thân) một niệm thích ứng, gọi là Niệm Phật Tam muội. Nhập vào môn Tam muội này thì có thể bao gồm hết tất cả các môn Tam muội.
Trưởng giả Giải Thoát nói: “Tôi vào ra trong môn Giải thoát trang nghiêm vô ngại của Như Lai, thấy các đức Như Lai nhiều như số bụi nhỏ trong mười cõi nước Phật ở mười phương. Các đức Như Lai ấy không đi tới đây và tôi cũng chẳng đến chỗ các đức Như Lai kia, hoặc tôi muốn thấy đức Như Lai A Di Đà ở thế giới phương Tây thì tùy ý liền thấy, hoặc tôi muốn thấy đức Như Lai Kim Cương Quang Minh ở thế giới Chiên Đàn, đức Như Lai Bảo Quang Minh ở thế giới Diệu Hương, đức Như Lai Bảo Liên Hoa Quang Minh ở thế giới Liên Hoa, đức Như Lai Tịch Tịnh Quang ở thế giới Diệu Kim, đức Như Lai Bất Động ở thế giới Diệu Hỉ, đức Như Lai Sư Tử ở thế giới Thiện Trụ, đức Như Lai Nguyệt Giác ở thế giới Cảnh Quang Minh, đức Như Lai Tỳ Lô Giá Na ở thế giới Bảo Sư Tử Trang Nghiêm, tôi đều thấy hết các đức Như Lai như thế. Tôi biết tất cả các đức Phật cho đến tâm tôi đều như mộng. Tôi biết tất cả các đức Phật cho đến tâm tôi thảy đều như âm vang. Tôi biết như thế, ức niệm như thế, đức Phật được tôi thấy đều do tâm tôi”. Giải thoát trang nghiêm vô ngại nghĩa là siêu việt tất cả tướng, thành tựu tất cả tướng. Tuy như mộng như huyễn nhưng cũng không hoại diệt các cảnh mộng huyễn. Nếu người không nhập vào pháp môn mộng huyễn này thì như các Ngài Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên… dù đang ở trong rừng Thệ Đa mà vẫn chẳng thấy cảnh giới thần lực Như Lai, vì thiện căn bất đồng.
Cư sĩ Bệ Sắc Chi La nói: “Lúc mở tháp của đức Như Lai Chiên Đàn Tọa, tôi đắc Tam muội tên là Phật Chủng Vô Tận. Tôi nhập Tam muội này, tùy theo thứ tự của Tam muội mà tôi thấy tất cả đức Phật ở thế giới này, đó là Phật Ca Diếp, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Câu Lưu Tôn, Phật Thi Khí, Phật Tì Bà Thi, Phật Phất Sa, Phật Vô Thượng Thắng, Phật Vô Thượng Liên Hoa, các đức Phật kể trên làm thượng thủ. Ở trong khoảnh khắc một niệm, tôi được thấy trăm đức Phật, nghìn đức Phật, trăm nghìn đức Phật cho đến các đức Phật nhiều như số bụi nhỏ trong bất khả thuyết, bất khả thuyết thế giới”. Phật chủng vô tận này đều do nguyện hạnh Phổ Hiền và đều lấy bốn câu không có tận để thành tựu. Đó là: Hư không giới tận, chúng sinh giới tận, chúng sinh nghiệp tận, chúng sinh phiền não tận, nguyện của tôi mới tận, nhưng vì hư không giới cho đến phiền não không có tận, thế nên Phật chủng không có tận. Vì thế nói: “Tôi biết tất cả các đức Như Lai ở khắp mười phương rốt cuộc không có Bát Niết bàn”. Thế nên, biết báo thân và hóa thân của các đức Phật bao gồm tất cả số. Như phẩm A Tăng Kỳ nói: “Khắp cả thời gian”, phẩm Như Lai Thọ Lượng nói: “Khắp cả không gian”, phẩm Bồ Tát Trụ Xứ nói: “Niệm Phật như vậy, hai bên bình đẳng, sinh diệt nhất như, tận kiếp vị lai không có gián đoạn.
3. Niệm danh tự Phật để thành tựu phương tiện hay nhất
Pháp thân không có hình tướng, giả mượn danh tự để trình bày. Báo thân và hóa thân vô biên nhờ danh tự mà được biết đến đầy đủ. Bài kệ tán trong phẩm Tu Di:
“Thà chịu khổ địa ngục
Được nghe danh tự Phật
Không hưởng vô lượng vui
Không nghe danh tự Phật”.
Sở dĩ trong vô số kiếp ở đời quá khứ, chịu khổ trôi lăn trong sinh tử vì chẳng được nghe danh tự Phật. Chỉ cần nghe được danh tự Phật là đã trồng nhân tốt, huống chi luôn luôn niệm liên tục.
Như trong kinh Văn Thù Bát Nhã ghi: “Muốn nhập Nhất Hạnh Tam muội, phải ở nơi vắng vẻ, bỏ các loạn tưởng, chẳng chấp tướng mạo, buộc tâm vào một đức Phật, chuyên xưng danh tự, tùy theo Phật ở hướng nào, ngồi thẳng quay mặt về hướng ấy buộc niệm tương tục vào một đức Phật, thì ở trong niệm đó thấy được các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sao? Vì công đức niệm một đức Phật bằng công đức niệm vô lượng đức Phật”.
Kinh A Di Đà cũng lấy chấp trì danh hiệu làm chánh nhân vãng sinh. Cho nên biết công đức của danh tự không thể nghĩ bàn.
Như bài kệ tán trong phẩm Đâu Suất:
“Lấy Phật làm cảnh giới
Chuyên niệm không ngừng nghỉ
Người này được thấy Phật
Số Phật bằng với tâm”.
Phẩm Hiền Thủ nói:
“Nếu thường niệm Phật, tâm bất động
Ắt thường trông thấy vô lượng Phật
Nếu thường trông thấy vô lượng Phật
Ắt thấy Như Lai thể thường trụ”.
Bài kệ trước luận về trì danh nên nói “số”, bài kệ sau gồm cả báo thân và hóa thân để thấu suốt pháp thân nên nói “vô lượng”. Tuy nhiên, mọi người chỉ biết số hữu lượng mà không biết số siêu việt lượng, biết danh tự của tức số mà chẳng biết danh tự của siêu việt số, biết danh tự của siêu việt số nên suốt ngày niệm mà chưa từng niệm, biết số của siêu việt lượng nên niệm một đức Phật tức gồm hết tất cả Phật.
Phẩm Tùy Hảo Quang Minh ghi: “Như ta nói ngã mà chẳng chấp ngã, chẳng chấp ngã sở. Tất cả chư Phật cũng vậy, tự nói là Phật nhưng chẳng chấp ngã và ngã sở”.
Nhưng người mới vào môn này ắt phải dựa vào số, hằng ngày cần phải hạn định khóa trình, từ một đến vạn, từ vạn đến ức, niệm chẳng rời Phật, Phật chẳng khác tâm, như trăng ở trong nước mà trăng chẳng phải ở trong nước; như xuân ở tại cành hoa mà xuân chẳng phải ở ngoài cành hoa. Niệm Phật như vậy thì danh tự tức pháp thân, vì tánh của danh tự chẳng thể thủ đắc. Pháp thân tức danh tự vì pháp thân hiện hữu ở khắp mọi nơi, cho đến báo thân và hóa thân cũng chẳng khác danh tự. Cũng vậy, danh tự chẳng khác báo thân và hóa thân. Cho nên, phẩm Như Lai Danh Hiệu nói: “Danh hiệu của một đức Như Lai đồng đẳng với pháp giới hư không giới, tùy theo tâm chúng sinh mà mỗi người đều thấy biết khác nhau”. Như thế, đủ biết các danh tự của thế gian đều là danh tự Phật, chỉ cần nêu ra bất cứ một danh tự Phật nào cũng đều bao gồm hết danh tự của thế gian.
Phẩm Tỳ Lô Giá Na viện dẫn các đức Phật quá khứ có danh tự bất đồng, nhưng chỉ cần dùng một danh tự Tỳ Lô là bao gồm hết, vì tất cả các đức Phật đều có tạng thân Tỳ Lô xưa nay không khác. Như vậy, niệm Phật, thọ trì danh tự một đức Phật thì gồm thu pháp giới. Danh tự là toàn pháp giới nên toàn pháp giới gồm thu, chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai, cũng chẳng phải phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng cạnh, phương trên, phương dưới, mười phương, ba thời gian không sót trong lúc đang niệm, chẳng trải qua một Sát na (thời gian cực ngắn) đã thành Phật rồi.
4. Niệm Phật Tỳ Lô Giá Na để chóng nhập vào pháp giới Hoa Nghiêm
Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm ghi các bài kệ tụng của các vị Bồ tát và Trời, Rồng, quỷ thần ở khắp mười phương, mỗi vị đều nói ra pháp môn của mình chứng đắc, rồi dùng quả địa Như Lai phát khởi tín giải cho người để họ nhập vào Niệm Phật Tam muội. Từ đó, nói phẩm Như Lai Hiện Tướng cho đến các phẩm Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, mỗi phẩm đều có các vị Đại Bồ tát và các vị thí chủ ở khắp mười phương nói kệ tán Phật. Rồi ở phẩm Thập địa, mỗi khi trải qua một địa đều nói: “Chẳng rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”. Thế nên, biết thứ lớp các giai vị tuy khác nhưng giai vị nào cũng lấy niệm Phật làm bản hạnh. Phật với Phật đạo đồng, nên một Tỳ Lô bao gồm hết. Vì thế, một môn “Thường tùy Phật học” trong mười nguyện Phổ Hiền nói: “Như đức Như Lai Tỳ Lô Giá Na ở thế giới Ta bà này, từ lúc mới phát tâm tinh tấn không lui sụt, đem bất khả thuyết, bất khả thuyết thân mạng bố thí cho đến thành Đại Bồ đề, nhập Niết bàn, tôi đều theo học tất cả các hạnh như thế”.
Do bản sự của Ngài ở địa vị tu nhân rộng lớn vô biên không thể nghĩ bàn, cho nên cảm được báo thân và hóa thân cũng rộng lớn vô biên không thể nghĩ bàn. Người tu hành thật sự có được tín giải vững vàng thì biết tất cả Phật chẳng rời tự tánh, rồi khởi tâm mạnh mẽ, phát tâm gánh vác thì không khác chi đức Bổn Sư lúc mới phát tâm.
Dạ thần Tịch Tịnh Âm Hải nói: “Tôi được môn giải thoát sinh ra Hỉ Trang Nghiêm rộng lớn trong mỗi niệm, rồi có thể nhập vào biển pháp giới an lập nhiều như số bụi nhỏ trong mười bất khả thuyết, bất khả thuyết cõi nước Phật, thấy các hạt bụi nhỏ trong tất cả cõi Phật của biển tất cả pháp giới an lập ấy. Trong mỗi hạt bụi nhỏ, có cõi nước Phật nhiều như số bụi nhỏ của mười bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước Phật. Mỗi một cõi nước đều có đức Tỳ Lô Giá Na ngồi đạo tràng, trong mỗi niệm thành Đẳng chánh giác, hiện các thần biến, mỗi thần biến được hiện ra đều khắp tất cả biển pháp giới.
Dạ thần Khai Phu Thụ Hoa nhập vào môn giải thoát sinh ra Hỉ Quang Minh rộng lớn, nhớ lại và đều thấy rõ hết các hạnh tu hành ở quá khứ của đức Tỳ Lô Giá Na.
Thần Diệu Đức Viên Mãn đắc môn giải thoát tự tại, thọ sinh nhập vào biển vô lượng thọ sinh của đức Tỳ Lô Giá Na ở vô lượng cõi Phật, trong mỗi hạt bụi của tất cả thế giới thị hiện thọ sinh thường không gián đoạn”.
Như vậy, niệm Tỳ Lô Giá Na thì ngay nơi niệm là Phật, ngay nơi Phật là niệm. Tận mười phương hư không cho đến nhỏ như đầu cây kim, hạt cải không có chỗ nào không phải là pháp giới Tỳ Lô. Đây gọi là niệm Phật pháp giới, cũng gọi là niệm khắp tất cả Phật. Sở dĩ, đồng tử Thiện Tài đầu tiên tham Đức Vân liền được nghe pháp môn niệm Phật, cuối cùng đồng tử Thiện Tài được Bồ tát Phổ Hiền nói kệ ngợi khen công đức thù thắng của Như Lai và dạy người tín giải, y như cũ chẳng rời pháp môn niệm Phật. Trước sau pháp giới không còn hai đế chân tục. Kệ rằng:
“Hoặc thấy cõi này đẹp vô cùng
Được Phật nghiêm tịnh vô lượng kiếp
Đấng tối thắng Tỳ Lô Giá Na
Từ trong giác ngộ thành Chánh giác.
Hoặc thấy đức Phật Vô Lượng Thọ
Được Bồ tát Quán Tự Tại nhiễu quanh
Đều đã trụ giai vị Quán đảnh
Đầy cả thế giới khắp mười phương”.
Và nói:
“Hoặc thấy Thích Ca thành Phật đạo
Đã trải số kiếp chẳng nghĩ bàn
Hoặc thấy các vị thành Bồ tát
Đang làm lợi ích cho chúng sinh
Hoặc thấy Như Lai Vô Lượng Thọ
Thọ ký cho các vị Bồ tát
Sẽ thành Đại đạo sư Vô thượng
Được bổ xứ vào cõi An Lạc”.
Thế nên, biết pháp giới của các đức Phật dung nhiếp hết, toàn thể là Di Đà, Cực Lạc Giá Na chẳng rời Hoa Tạng, tùy theo tâm chúng sinh mà mỗi người thấy chẳng đồng nhau, nhưng vì Phật xưa nay thường bất động, cho nên quyển cuối của bộ kinh Hoa Nghiêm, lấy hồi hướng Cực lạc làm chỗ chung cuộc.
5. Niệm Phật A Di Đà ở thế giới Cực lạc viên mãn đại nguyện Phổ Hiền
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện ghi: “Người muốn thành tựu môn công đức Như Lai, cần phải tu mười hạnh nguyện rộng lớn:
1. Lễ kính chư Phật.
2. Ngợi khen Như Lai.
3. Rộng tu cúng dường
4. Sám hối nghiệp chướng
5. Tùy hỉ công đức
6. Thỉnh chuyển pháp luân
7. Thỉnh Phật trụ thế
8. Thường tùy Phật học
9. Hằng thuận chúng sinh
10. Đều hồi hướng hết”.
Kinh Hoa Nghiêm này chuyên trình bày cảnh giới Tỳ Lô, tại sao phải lấy Cực lạc làm chỗ quy hướng?
Bởi vì, một danh hiệu của A Di Đà là Vô Lượng Quang, mà Tỳ Lô Giá Na cũng được dịch ra chữ Hán là Quang Minh Biến Chiếu, vì đồng một thể, vì chẳng phải đến, đi, vì ở trong nhất thể cũng không ngại đến, đi. Như luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Chúng sinh mới học pháp này muốn cầu chính tín, nhưng tâm họ yếu đuối, vì trụ ở thế giới Ta bà không thể thường gặp chư Phật, hầu hạ cúng dường, ý muốn thoái lui. Người ấy nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp hộ tín tâm, đó là chuyên niệm Phật A Di Đà ở thế giới Cực lạc phương Tây, hồi hướng căn lành đã tu tập, nguyện cầu sinh về thế giới kia thì được vãng sinh, vì thường được thấy Phật nên không bao giờ lui sụt”.
Vì báo độ của đức Tỳ Lô, hàng Nhị thừa và phàm phu không có phần được tiếp dẫn. Nhưng Cực lạc thì có chia ra làm chín phẩm, mọi loài đều được tham dự. Một khi được vãng sinh, cắt ngang dòng sinh tử, đủ thấy sự hơn kém giữa Ta bà và Cực lạc. Các kinh đã nói cặn kẽ, ở đây không cần phải ghi lại đầy đủ.
Nhưng kinh khác chỉ dạy hoặc nói “mười niệm”, hoặc nói “một ngày cho đến bảy ngày”, hoặc quán “thân Phật một trượng sáu cho đến sáu mươi vạn ức Na do tha hằng hà sa Do tuần”. Tóm lại, chẳng ra ngoài số lượng. Chưa bằng kinh Hoa Nghiêm này, một niệm quán khắp dọc suốt ba thời gian, ngang trùm mười phương hư không. Ngay lúc mới phát tâm liền siêu việt số lượng, có được nhân thanh tịnh hết sức thù thắng. Do Phật A Di Đà dùng bốn mươi tám lời nguyện tiếp nhận khắp chúng sinh cùng với nguyện vương này thể hợp hư không, mảy may không cách biệt. Thế nên, chẳng đợi thời gian, chẳng dời nơi chốn, nhậm vận vãng sinh, trở lại đồng với cái sẵn có.
Văn sau nói: “Đến rồi, thấy các vị Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Quán Tự Tại, Di Lặc v.v… cùng nhau nhiễu quanh đức Phật A Di Đà”. Văn Thù, Phổ Hiền chẳng rời cõi Ta bà này mà hiện thân ở phương kia, tùy theo tâm chúng sinh, niệm niệm xuất hiện. Vì thế, biết Phật A Di Đà ở trong nước Cực lạc, thường chuyển kinh Hoa Nghiêm này không lúc nào ngừng nghỉ.
Lại nữa, pháp môn niệm Phật này, nếu chẳng phải diệu trí quán sát thì không thể nào rõ biết được cái nhân thanh tịnh sẵn có đủ trong tâm ta, cho nên đầu tiên là Văn Thù. Nếu chẳng phải đại nguyện trang nghiêm thì không thể nào viên mãn được cái quả thanh tịnh sẵn có đủ trong tâm ta, cho nên kế đó là Phổ Hiền, rồi Quán Âm, Di Lặc, một vị sẽ được bổ xứ thành Phật ở nước Cực lạc. Một vị sẽ được bổ xứ thành Phật ở cõi Ta bà. Hai vị Thánh đồng tụ hội để chứng tỏ Lạc Bang và Hoa Tạng chung một, không hai. Nhưng Ngài Di Lặc nhờ đế quán mười phương duy thức, thức tâm tròn sáng, nhập viên thành thật, đấy là chính nhân của Tịnh độ. Quán Âm nhờ như huyễn văn huân vô tác diệu lực mà vào khắp cõi nước thành tựu Bồ đề, đấy là cực quả của Tịnh độ.
Văn sau nói: “Người ấy tự thấy sinh trong hoa sen, được Phật thọ ký. Được thọ ký rồi, trải qua vô số trăm nghìn vạn ức Na do tha kiếp dùng sức trí huệ, tùy theo tâm chúng sinh mà làm lợi ích, chẳng bao lâu sẽ ngồi tòa Bồ đề đạo tràng, hàng phục ma quân, thành Đẳng chánh giác, chuyển pháp luân vi diệu, khiến cho chúng sinh trong các cõi nước Phật nhiều như số bụi nhỏ phát tâm Bồ đề, tùy theo căn tánh của họ mà giáo hóa thành thục cho đến tận nhiều kiếp ở đời vị lai làm nhiều lợi ích cho tất cả chúng sinh”.
Toàn bộ kinh Hoa Nghiêm đến đây kết thúc, các người có trí phải cương quyết tin tưởng tiến vào, một niệm lơ là thì luân hồi vô tận. Than ôi! Khổ thay!
Đọc phần 1 | Đọc phần 2
Các Phúc Đáp Gần Đây