Lợi Ích Của Pháp Môn Niệm Phật

Lợi Ích Của Pháp Môn Niệm PhậtNiệm Phật là một phương pháp tu tập rất quen thuộc với người học Phật ở Việt Nam chúng ta. Pháp môn Niệm Phật còn được gọi là pháp môn Tịnh độ. Nó quen thuộc đến độ hễ nghe nhắc đến pháp môn Niệm Phật là người ta nghĩ ngay đến phương pháp trì niệm Hồng danh Đức Phật A Di Đà.

Trong nhiều pháp môn tu thì đây có thể nói là một pháp môn dễ hành trì và hành giả có thể cảm nhận được sự lợi ích từ pháp tu của mình ngay trong hiện tại cũng như trong tương lai. Trong kinh Niệm Phật Ba-la-mật, Bồ tát Quán Thế Âm đã xác quyết rằng: “Pháp Niệm Phật tam muội là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô thượng giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất tư nghì của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ tri kiến Như Lai, là pháp cứu độ tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hý luận cùng thiên kiến của nhị thừa”.

Trong xã hội hiện tại, theo như trong kinh điển gọi là thời mạt pháp, có rất nhiều chướng duyên, con người phần nhiều thường hay giãi đãi, hay thối thất chí nguyện hướng thiện và hướng thượng của mình, cho nên có thể nói rằng tu tập pháp môn Niệm Phật là phù hợp hơn cả. Như Thiền sư Thiên Như đã dạy: “Ðời mạt pháp về sau, các kinh sách đều bị tiêu mất hết, chỉ còn lưu lại bốn chữ A Di Ðà Phật để cứu độ chúng sinh mà thôi”. Qua đó cho chúng ta thấy pháp môn Niệm Phật có vai trò quan trọng và có sức ảnh hưởng sâu rộng đến mức nào. Sở dĩ pháp môn Niệm Phật có được sức ảnh hưởng lớn như vậy là vì nó đem lại nhiều lợi ích cho hành giả ngay trong giờ phút hiện tại và cả trong tương lai.

Trước hết, người niệm Phật sẽ có được sự an lạc, hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Ngay trong lúc chúng ta chuyên tâm trì niệm Hồng danh Đức Phật Di Đà, tâm không còn chạy theo những ý niệm bất thiện, những tư tưởng loạn động, không còn bị những tâm niệm tham lam, sân hận và si mê quấy nhiễu. Tâm của chúng ta ví như một căn phòng, và trì niệm Hồng danh Đức Phật là thắp lên trong căn phòng tâm thức của chúng ta một ngọn đèn, khi ánh đèn sáng tỏ đã được thắp lên thì bóng tối trong gian phòng ấy sẽ tự nhiên bị đẩy lùi, bị tiêu mất. Hơn nữa, khi ta niệm Phật thì tâm trí không còn nhớ nghĩ đến những điều xấu xa, miệng và thân không tạo ra nghiệp ác. Một giờ niệm Phật, là một giờ không tạo nghiệp bất thiện; một ngày chuyên niệm Phật, thì trong ngày đó chúng ta tránh được các nghiệp ác. Không tạo các nghiệp ác cũng đồng nghĩa là tâm không bị giày vò bởi những lo âu, phiền muộn, do vậy mà chúng ta cảm thấy hạnh phúc, an vui.

Hơn nữa, khi lòng của chúng ta được an tĩnh thì tâm trí thường sáng suốt, minh mẫn. Nhờ vậy mà chúng ta phát huy được khả năng sáng tạo của mình đồng thời có thể đưa ra được những giải pháp đúng đắn, phù hợp để giải quyết những vấn đề khó khăn trong đời thường cũng như trong công việc. Vả lại, khi tu tập pháp môn Niệm Phật, chúng ta tưởng nhớ đến Đức Phật, đến những công hạnh của Ngài, quán chiếu về những phẩm tính cao quý của Ngài, những thứ đó sẽ dần dần thẩm thấu vào trong tâm thức, từ từ chuyển hóa những ý nghĩ, hành động và lời nói của chúng ta theo chiều hướng thiện lành. Nhờ vậy mà thân tâm được thanh lọc dần dần, và những phẩm hạnh cao quý được trưởng dưỡng ở trong ta. Hay nói cách khác, tu tập pháp môn Niệm Phật sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân mình, xây dựng cho mình một nhân cách đạo đức tốt, có được một cuộc sống hiền lương, thánh thiện.

Bên cạnh đó, tu tập pháp môn Niệm Phật sẽ làm vơi đi tâm sầu muộn. Trong những lúc buồn phiền, đau khổ, trong khi gặp nghịch cảnh như: lúc tử biệt sinh ly, lúc con cái hư hỏng, nhà cửa tiêu tan, kinh tế suy thoái, vợ chồng bất hòa, bạn bè phụ bạc, v.v… nếu chúng ta niệm Phật thì những điều buồn phiền, đau khổ ấy sẽ dần dần vơi đi. Vì khi niệm Phật, chúng ta không còn nhớ nghĩ đến những điều đau buồn ấy nữa. Hơn nữa, khi niệm Phật như thế, chúng ta tưởng nhớ đến đức hạnh của Ngài, những giáo lý Ngài đã dạy như là Vô thường, Tứ đế, Nhân quả,… thì sẽ có một cách nhìn nhận mới đối với những khổ đau, phiền muộn của chúng ta. Nhờ vậy mà ta không còn bị chi phối nhiều bởi những khổ đau, phiền muộn ấy nữa.

Không những thế, niệm Phật còn là một phương pháp an tâm rất hiệu quả. Những lúc bị lo âu, hồi hộp và bất an, để trấn an bản thân thì chúng ta nên niệm Phật, đưa tâm của mình về với câu Phật hiệu, nhờ vào sự nhất tâm trì niệm của bản thân cộng với sự gia trì của chư Phật, chúng ta dễ dàng tìm lại được sự an tĩnh. Đây là một điều lợi ích rất thiết thực của pháp môn Niệm Phật. Dù là ai đi nữa, nếu biết dùng câu Phật hiệu để tìm lại sự an tĩnh của tâm hồn thì đều dễ dàng đạt được kết quả như ý muốn. Cũng chính vì lợi ích này mà đôi khi có những em nhỏ đã đến với đạo Phật, biết đến câu Phật hiệu một cách rất dễ thương, rất hồn nhiên. Các em nhỏ thường hay sợ ma, nhất là đi vào những đoạn đường tối tăm một mình vào ban đêm. Thế nhưng vì hoàn cảnh, vì công việc mà buộc các em phải đi qua con đường đó chứ không còn con đường nào khác. Trong trường hợp như thế, có những ông bà, cha mẹ đã chỉ dạy các em niệm Phật. Họ bảo rằng, những lúc sợ ma, những lúc cảm thấy lo âu thì con nên niệm Phật, Đức Phật sẽ che chở cho con, gia hộ cho con thoát khỏi mọi hiểm nguy. Hoặc là lúc các em đi thi, các em cũng thường bị hồi hộp, bất an, để giúp con mình giữ được bình tĩnh, có những bậc phụ huynh đã dạy cho các em niệm Phật để lấy lại bình tĩnh, để được chư Phật gia hộ. Với niềm tin rất mộc mạc, dễ thương như thế, các em đó đã niệm Phật, để tìm lại sự an ổn cho tâm hồn. Như vậy, câu Phật hiệu đã trở thành một phương tiện hữu hiệu dẫn dắt các em vào đạo, hướng các em đến với con đường chân thiện mỹ.

Cùng với những ích lợi trên, tu tập pháp môn Tịnh độ còn giúp cho hành giả có được sự bình tĩnh trước những chướng duyên trong cuộc sống, và nhất là có được sự an định trong giờ phút lâm chung. Cận tử nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong sự tái sinh, sau khi kết thúc sinh mạng trong hiện tại. Người thiếu tu tập thì tâm thường rất hoảng loạn trong giờ hấp hối, khi đối mặt với tử thần, vì họ không biết mình sẽ đi đâu, về đâu, họ không nỡ dứt bỏ trần duyên, không đành từ bỏ những người thân yêu của mình, lại bị sự đau đớn, dày vò của thể xác nữa. Sự hoảng loạn và bám víu ấy sẽ khiến cho họ phải bị thác sinh vào những cảnh giới không mấy tốt đẹp. Nếu là người đã từng chuyên tâm tu tập pháp môn Niệm Phật, đã từng niệm Phật với niềm tin sâu sắc, với tâm nguyện chí thành, và với sự thực tập chuyên nhất thì trong giờ hấp hối lòng họ không hề nao núng, không chút hoảng loạn, vì họ hiểu rõ tính giả tạm của cuộc sống và tin chắc rằng họ sẽ được Đức Phật Di Đà phóng quang tiếp dẫn về thế giới Cực lạc.

Câu Phật hiệu còn là điểm tựa tinh thần vững chắc nhất cho những người có niềm tin vào Tam bảo, niềm tin vào tha lực gia hộ và che chở của Đức Phật A Di Đà khi họ rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng, không còn biết trông cậy, tin tưởng vào ai, không còn làm chủ được tình huống khi lực bất tòng tâm. Chẳng hạn như khi người thân của mình đang lâm trọng bệnh, chưa biết sống chết thế nào, khi họ phải đối mặt với tử thần. Trong những lúc ấy thì câu Phật hiệu là một liều thuốc vô giá đối với họ. Đặc biệt vào những lúc như thế thì mọi người thường niệm Phật vô cùng tha thiết và chí thành. Chính vì vậy mà chẳng những bản thân người niệm Phật được an tâm mà người thân của họ cũng được Phật lực gia hộ.

Còn có một điều lợi ích nữa của sự tu tập pháp môn Niệm Phật, đây cũng là mục đích chính yếu và lợi ích cao quý nhất của pháp môn này, đó là người tu pháp môn Niệm Phật đúng cách sau khi kết thúc đời sống hiện tại sẽ được vãng sanh về cõi Cực lạc. Vãng sanh Cực lạc thì chúng ta không còn phiền não, không bị bệnh tật, già yếu, lại còn được hưởng những niềm phúc lạc vô biên, và còn có điều kiện tốt, môi trường và hoàn cảnh tốt, bạn tốt để tu hành, chứng đạt quả vị giải thoát, giác ngộ, để rồi từ đó có đủ năng lực giáo hóa chúng sanh trong khắp mười phương.

Pháp môn Niệm Phật có những lợi ích thiết thực và cao đẹp như thế, cho nên Đại sư Ưu Đàm đã viết bài thơ để khuyến tấn mọi người rằng:

Đống xương sanh tử dường non cả,
Giọt lệ chia ly nước biển đầy!
Thế giới ngày kia rồi cũng hoại,
Đời người khoảnh khắc chớ mê say.
Cái thân nam nữ ngàn phen đổi,
Mà kiếp sừng lông vạn lúc thay.
Muốn khỏi luân hồi nhiều khổ hận,
Phải tu Tịnh độ gấp khi này.

Minh Nguyên
(Theo Giác Ngộ Online)

Sinh Tử Là Việc Lớn

Sinh Tử Là Việc LớnNỗi thao thức trong mỗi chúng ta là làm sao giải quyết được sinh tử bởi vì còn sinh tử thì chúng ta cứ mãi trôi lăn trong vòng luân hồi của lục đạo hết sức khổ sở. Vì sinh tử, chúng ta cứ mãi vô ra trong bào thai đầy hôi tanh máu mủ, nhơ nhớp của người mẹ, có khi nằm trong bào thai của con chó, con heo, con cá v.v… cứ mãi quay đi lộn lại trong vô lượng kiếp như vậy, thật là ghê rợn.

Vì sinh tử mà làm đảo lộn luân thường đạo lý, ví dụ như cha lấy con, con lấy cha, mẹ lấy con, con lấy mẹ, chị lấy em, cầm dao giết con vật để ăn, không ngờ ta giết cha mẹ, anh, chị, em, thân bằng quyến thuộc đọc tiếp ➝

Trí Không Thể Nghĩ Bàn

Trí Không Thể Nghĩ BànHành giả nghi rằng: Nhớ niệm Phật A Di Đà, không chắc được vãng sanh về An Lạc. Vì sao? Trong kinh nói: “Đạo lý của nghiệp như quả cân bên nào nặng sẽ kéo nghiêng về bên đó”.

Vì sao có người trọn đời, hoặc trăm năm, hoặc 10 năm, hoặc một tháng không có ác nào không tạo, chỉ nhờ có 10 niệm liên tục, liền được vãng sanh, liền vào chánh định tụ, cứu kính không thối chuyển, cùng các khổ của ba đường ác cách xa vĩnh viễn.

Nếu như thế cái nghĩa phía nặng kéo về làm sao có thể tin. Lại nữa, từ vô lượng kiếp đến nay, tạo đủ các pháp hữu lậu, bị ràng buộc vào ba cõi, vì sao không cắt đứt kiết hoặc của ba cõi, chỉ trong thời gian rất ngắn niệm Phật A Di Đà liền được ra khỏi ba cõi. Như thế nghĩa bị nghiệp trói buộc làm sao giải thích được? Đối trị với điều nghi này nên Phật dạy: Trí không thể nghĩ bàn. Trí không thể nghĩ bàn là năng lực của Phật trí. Năng lực này có thể lấy ít làm nhiều, lấy nhiều làm ít, lấy gần làm xa, lấy xa làm gần, lấy nhẹ làm nặng lấy nặng làm nhẹ, lấy dài làm ngắn lấy ngắn làm dài.

Phật trí như thế vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Ví như, có trăm người, suốt trăm năm đốn củi, chứa đống cao ngàn trượng, chỉ cần cho một mồi lửa, nửa ngày là cháy sạch. Đâu có thế nói rằng đống củi trăm năm mà đốt nửa ngày không cháy hết. Lại như có người què được lên thuyền gặp gió thuận buồm căng, một ngày vượt xa ngàn dặm, đâu có thể nói người què một ngày không đến nơi cách xa ngàn dặm ư! Lại như có một người nghèo hèn, nhặt được vật quý của nhà vua, nhà vua mừng tìm được lại vật cũ, liền thêm trọng thưởng, người ấy chỉ trong khoảnh khắc giàu sang đầy dẫy. Đâu có thể nói người muốn được vua ban phải mười năm đèn sách khó nhọc còn không đạt được, huống hồ người kia chỉ có chút việc mà có được giàu sang như thế.

Lại có người yếu đuối, gắng sức leo lên con lừa còn không nổi, được lên xe chuyển luân Thánh vương, liền bay trên hư không, bay lượn tự nhiên. Đâu có thể nói người yếu đuối sức leo lên con lừa còn không nổi kia không thể bay được trên hư không ư! Lại như có một sợi dây thừng trói mười dũng sĩ, không làm sao dùng sức thoát khỏi, chỉ cần một đứa trẻ con dùng thanh gươm bén chém một nhát là dây đứt làm hai đoạn.

Đâu thể nói sức chú nhỏ không thể cắt được sợi dây thừng kia sao? Tất cả muôn pháp đều có tự lực và tha lực, tự nhiếp và tha nhiếp. Nghìn mở muôn đóng vô lượng vô biên, đâu có thể đem chỗ hiểu biết có trở ngại của mình mà nghi pháp vô ngại của người kia. Lại nữa, trong năm thứ không thể nghĩ bàn, Phật pháp là pháp không thể nghĩ bàn hạng nhất. Chúng ta không thể cho làm ác trăm năm là nặng, lại nghi mười niệm niệm Phật là nhẹ không được vãng sanh về thế giới An Lạc, vào chánh định tụ việc ấy hoàn toàn không đúng.

Đàm Loan Đại Sư

Sức Mạnh Của Niệm Phật

Sức Mạnh Của Niệm PhậtLà người tu thiền, nghe nói niệm Phật tự nhiên thấy ngờ ngợ như dị ứng. Vì chúng ta biết rõ cứu cánh của hai pháp môn không khác, nhưng phương tiện vào cửa thì gần như đối lập. Một bên dùng tín hạnh nguyện để hành trì, còn một bên dùng trí tuệ chiếu kiến.

Bên này thì cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, bên kia thì vô sanh. Như hai người cùng lên núi, một người đi hướng đông, một người đi hướng tây, hai hướng đối lập, mỗi hướng có những hoàn cảnh khác nhau, nhưng khi lên đến đỉnh thì gặp nhau.

Do đó tu thiền mà bảo niệm Phật thì hoàn toàn không hợp lý, đó là vì chúng ta chỉ hiểu trên sự tướng mà chưa nhận ra lý tánh của niệm Phật.

Niệm là nhớ, Phật là giác, niệm Phật tức là nhớ tánh giác, như vậy người tu thiền có cần nhớ tánh giác không? Nói nhớ tánh giác là gượng nói, vì dễ khiến người hiểu lầm là tánh giác là cái bị nhớ, trong khi tánh giác là cái sẵn có của mọi người. Nhưng sống với vọng tưởng thì tưởng chừng như từ lâu quên không có, đến lúc biết có thì lại hay quên, cứ để vọng tưởng lôi dẫn, nên phải khắc ghi gọi là nhớ.

Kỳ thực tánh giác không bao giờ mất, chỉ cần không theo vọng tưởng, vì vọng tưởng là nghiệp của thân khẩu ý, là nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Cho nên vọng tưởng lặn thì cái còn lại chính là giác. Dù tu pháp môn nào, nếu nhắm vào mục đích giải thoát sanh tử thì đều gặp nhau ở điểm này.

Pháp môn niệm Phật thì dùng danh hiệu Phật A Di Đà thường nhớ thường niệm không để vọng tưởng xen vào. Cho đến nhất tâm bất loạn thì người đó khi lâm chung sẽ được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Chữ A Di Đà nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô lượng Quang, Vô Lượng Công Đức. Chúng ta thử xét xem có ai có thể hội đủ những đức tính đó, nếu không phải là tánh giác. Tánh giác không sanh diệt tức là Vô Lượng Thọ, sáng suốt không mê thường biết rõ là Vô Lượng Quang, lưu xuất các đức lành diệu dụng là Vô Lượng Công Đức.

Như vậy niệm Phật A Di Đà tức là nhớ tánh giác, mà tánh giác không có tướng mạo nên rất khó nhận. Nhờ hình ảnh đức Phật A Di Đà hoặc danh hiệu Phật A Di Đà mà bặt trừ những vọng tưởng cho đến nhất tâm bất loạn. Khi có sức lóng trong, liền trực nhận ra: “Tự tánh Đi Dà vô biệt niệm, bất lao đàn chí đáo Tây Phương”

Hoặc Sơ Tổ Trúc Lâm đã từng dạy trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, hội thứ hai:

Tịnh độ là lòng trong sạch,
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương.
Di Đà là tính sáng soi,
Mà phải nhọc tìm về Cực Lạc.

Nhưng tại sao lại phải về thế giới phương tây thì rất vui (Tây Phương Cực Lạc thế giới). Ví như người ra chợ buôn bán từ buổi bình mình là phải bày hàng ra, rao hàng, giới thiệu, trông coi, giữ gìn mua bán vào ra, rất là vất vả lăng xăng vui buồn qua lại.

Cho đến bóng ngã về tây, trời sắp tối không còn ai mua nên thu dọn nghỉ ngơi, lúc đó mới cảm thấy nhẹ nhàng thảnh thơi vui khỏe. Trời tây là ngầm ý hoàng hôn phủ xuống thì phải dọn dẹp mọi việc để nghỉ ngơi, thời điểm đó rất vui. Cũng vậy nếu trong tâm chúng ta biết thu dọn các vọng tưởng lại, đừng để chúng bày biện lăng xăng thì lúc đó tâm an, không còn một bóng dáng phiền não, nên gọi là rất vui.

Như vậy người tu thiền không chờ đợi đến khi lâm chung mới về thế giới rất vui. Khi vọng tưởng đã dứt bặt không còn nguyên nhân của sự bất an, chính là vui.

Đây là một sự thật cụ thể kiểm chứng được trong hiện tiền đối với những hành giả đã nếm được pháp vị!

Như trên đã dẫn, tánh giác không có tướng mạo nên khó nắm bắt, khó nhận ra. Tuy không tướng mạo nhưng thường hiển lộ qua sáu căn, mắt thấy sắc nếu không có tánh thì làm sao biết nên gọi là tánh thấy, tai nghe tiếng liền biết nên có tánh nghe, tự mỗi căn đều có tánh biết, động dụng thì có khác nhưng tánh biết thì không hai.

Thói quen từ lâu nay của chúng ta là khi thấy sắc liền khởi phân biệt đẹp xấu để sanh ra biết bao nhiêu nghiệp nhân quả, quên mình theo vật trôi theo sanh tử luân hồi cũng vì sáu căn. Hôm nay nhờ có duyên lành tỉnh ngộ, biết mình có tánh giác không sanh diệt, không sanh già bệnh chết, thì có đâu luân hồi, nên phải cố gắng tu tập để sống được tròn đầy. Do đó:

– Mắt thấy sắc thì biết, liền nhớ tánh thấy nên không nhiễm đẹp xấu, không có vọng tưởng, không dính mắt đó là mắt niệm Phật.

– Tai nghe tiếng thì biết liền nhớ tánh nghe không khởi phân biệt hay dở… đó là tai niệm Phật. Tương tự chúng ta sẽ có đủ sáu căn niệm Phật.

Như vậy người tu thiền không phải không niệm Phật, mà niệm Phật là nhớ tánh giác, cho nên phải nhớ một cách tha thiết cho đến lúc sống được trọn vẹn với tánh giác không còn niệm mê, tức là toàn giác, là Phật. Đã tha thiết chí thành như vậy, nên không thể tính đếm trên xâu chuổi, trên thời khóa, trên sổ công cứ, nghĩa là không được phép nghĩ ngợi vì một niệm bất giác đã đủ thành tai họa rồi.

Người tu thiền không chỉ niệm Phật bằng miệng, bằng ý, mà niệm Phật bằng tất cả sáu căn. Vì bất cứ căn nào đối cảnh mà sanh tâm dính mắc thì cũng vào sanh tử luân hồi. Cho nên phải giữ gìn sáu căn niệm Phật một cách miên mật trong mọi oai nghi, cho đến lúc đối cảnh vô tâm thì chẳng hỏi thiền, mà cũng chẳng hỏi Phật.

Người tu thiền mà niệm Phật thì có một sức mạnh thần kỳ, ngay tức khắc đã sống trong thế giới Cực Lạc. Vì vừa có vọng tưởng dấy khởi liền nhớ tánh giác, thì vọng tưởng mất sức lôi dẫn, cho nên chẳng sợ niệm khởi mà chỉ ngại giác chậm. Giác được rồi thì tâm khinh an thơi thới, giác liên tục thì phiền não cũng tiêu tan, vì bị biết rõ nên rất vui, vui không phải đối lại với buồn, mà vui vì sáng tỏ, đã rõ nguồn cơn, chưa hề ô nhiễm.

Phuơng Hiếu (Theo Chùa Thành)